Bản án 192/2017/DS-ST ngày 15/09/2017 về tranh chấp đòi lại tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ AN NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 192/2017/DS-ST NGÀY 15/09/2017 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 9 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã An Nhơn, xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số:110/2017/TLST-DS ngày 21 tháng 3 năm 2017, về việc “Tranh chấp đòi lại tài sản”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2017/QĐXX-DS ngày 11 tháng 8 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 26/2017/QĐHPT-DS ngày 25 tháng 8 năm 2017giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ủy Ban Nhân dân thị xã A.

- Người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn: Ông Đặng Vĩnh S , sinh năm 1971- Chủ tịch UBND thị xã A.

Địa chỉ: Đường L, phường B, thị xã A, tỉnh Bình Định.

- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Đình C, sinh năm 1972- Chức vụ Trưởng phòng Quản lý đô thị, thị xã A.( vắng mặt) Địa chỉ: Đường T, phường Đ, thị xã A, tỉnh Bình Định.

( Theo văn bản ủy quyền số 1178/QĐ-UBND ngày 18 tháng 4 năm 2017 )

(Ông Nguyễn Đình C có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

* Bị đơn: Anh Võ Khắc N, sinh năm 1982( có mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Huỳnh Thị N, sinh năm 1983 (vắng mặt)

Cùng địa chỉ: Thôn A, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 17/3/2017 của nguyên đơn Ủy Ban nhân dân thị xã A, và quá trình giải quyết vụ án người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Đình C trình bày:Thực hiện chính sách hỗ trợ thay thế xe công nông; xe lôi máy; xe cơ giới ba bánh; xe thô sơ ba, bốn bánh, thuộc diện bị đình chỉ tham gia giao thông, theo quyết định số 548/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ; Thông tư số 122/2009/TT-BTC ngày 17/6/2009 của Bộ tài chính; Công văn 11024/BTC-TCNH ngày 04/8/2009 của Bộ Tài chính và Công văn số 6207/BTC- TCNH ngày 17/5/2010 của Bộ Tài chính, các văn bản có nội dung hướng dẫn thực hiện hỗ trợ. UBND thị xã A đã giao cho phòng ban chuyên môn, tổ chức thực hiện, cụ thể phòng Quản lý đô thị thị xã A, có văn bản hướng dẫn các xã, thị trấn (Nay là phường) lập danh sách và tiến hành xác nhận đơn xin hỗ trợ của các chủ phương tiện và hướng dẫn kiểm tra, thẩm định hồ sơ, UBND thị xã A đã có quyết định hỗ trợ cho các đối tượng theo quy định.

Sau đó, UBND thị xã A đã kiểm tra lại và phát hiện, quá trình tổ chức thực hiện có sự nhầm lẫn về mốc thời gian hỗ trợ và tình trạng của phương tiện khi bán, nên làm thủ tục hồ sơ sai đối tượng. UBND thị xã A đã ban hành quyết định xử lý hỗ trợ sai trên, đồng thời đã mời các đối tượng nhận tiền hỗ trợ sai, nộp trả lại số tiền đã nhận. Trong đó có trường hợp ông Võ Khắc N ở thôn A, xã Nh thuộc đối tượng không được hỗ trợ vì bán xe độ và mua xe tải mới sai mốc thời gian quy định, anh N đã nhận tiền hỗ trợ chuyển đổi nghề 5.000.000.đ và tiền hỗ trợ mua xe tải thay thế là 4.000.000.đ. Nay UBND thị xã A yêu cầu vợ chồng anh N- chị N hoàn trả 9.000.000đ vào thời gian gần đây nhất.

Theo biên bản ghi lời khai ngày 25/7/2017, văn bản tố tụng khác và tại phiên tòa bị đơn anh Võ Khắc N trình bày: Khoảng trước năm 2000, anh có sở hữu chiếc xe độ nhưng khi có quy định của Nhà nước về việc đình chỉ phương tiện xe độ chế, anh đã bán chiếc xe trên, thời điểm bán là không nhớ cụ thể nhưng bán cho ông T ở Gia Lai, bán xong là mua xe tải mới nhưng mua thời gian nào cũng không nhớ. Theo hướng dẫn của cán bộ địa phương, anh đã làm đơn đề nghị hỗ trợ và sau đó nhận tiền là 9.000.000đ (Chín triệu đồng). Nay anh không đồng ý hoàn trả lại số tiền trên cho UBND thị xã A vì đã chấp hành đúng chủ trương Nhà nước.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Huỳnh Thị N là vợ của anh Võ Khắc N, quá trình giải quyết vụ án rất nhiều lần Tòa đến nhà nhưng không gặp chị N và nhiều lần tống đạt các văn bản hợp lệ nhưng chị N cố tình vắng mặt.

* Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến phiên tòa hôm nay, tất cả các hoạt động tố tụng những người tiến hành tố tụng đều tuân theo đúng quy định của pháp luật. Còn về chấp hành pháp luật những người tham gia tố tụng, nguyên đơn tuân thủ đầy đủ theo quy định pháp luật còn bị đơn và người có quyền, nghĩa vụ liên quan không chấp hành pháp luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc vợ chồng anh Võ Khắc N - chị Huỳnh Thị N hoàn trả lại 9.000.000đ (Chín triệu đồng) cho Ủy ban nhân dân thị xã A.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền: Ủy ban nhân dân thị xã A yêu cầu vợ chồng anh Võ Khắc N - chị Huỳnh Thị N hoàn trả lại tiền nhận hỗ trợ về chuyển đổi nghề và mua xe tải mới để thay thế xe độ thuộc diện bị đình chỉ tham gia giao thông do sai đối tượng được hỗ trợ, do đó quan hệ pháp luật là đòi lại tài sản được quy định tại Điều 256 Bộ luật dân sự 2005 và khoản 2 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Bị đơn N đang cư trú tại thị xã A, tỉnh Bình định nên theo Khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 BLTTDS 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết Tòa án nhân dân thị xã A.

[2] Về thời hiệu: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 155 và Điểm đ khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự 2015 thì quan hệ pháp luật trên không áp dụng thời hiệu.

[3] Về sự vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, còn người có quyền nghĩa vụ liên quan chị Huỳnh Thị N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ xét xử lần thứ hai nhưng vẫn cố tình vắng mặt không có lý do, theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông C và chị N .

[4] Về nội dung: Yêu cầu của UBND thị xã A đề nghị vợ chồng anh Võ Khắc N - chị Huỳnh Thị N hoàn trả số tiền 9.000.000đ, số tiền nhận hỗ trợ sai quy định. Các chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện gồm đơn đề nghị hỗ trợ; giấy xác nhận, giấy đăng ký xe ôtô; biên bản thẩm định. Nội dung các giấy tờ trên thể hiện anh N sở hữu xe độ vào năm 1999, đến năm 2007 thì bán xe cho ông T ở Gia lai và đã mua chiếc xe chiến thắng mới, biển số đăng ký 77H 5220 Giấy đăng ký xe do Công an tỉnh Bình Định cấp ngày 09/7/2007, theo phiếu chi số 30 của Kho bạc A thể hiện anh N nhận tiền hỗ trợ là 9.000.000đ . Tại phiên tòa hôm nay, lời trình bày của anh N hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ trên.

[5] Về đánh giá chứng cứ và viện dẫn pháp luật: Theo công văn số 6207/BTC- TCNH ngày 17/5/2010 của Bộ Tài chính, quy định “điều kiện hỗ trợ đối tượng có phương tiện bị đình chỉ tham gia giao thông đã thực hiện chuyển đổi phương tiện hoặc chuyển đổi nghề trong khoảng thời gian từ ngày …01/8/2007 đến Ngày ….29/4/2009) và có đủ điều kiện theo quy định tại Khoản 1,2 Điều 1 Quyết định 548… và công văn 11024/BTC-TCNH ngày 04/8/2009 của Bộ Tài chính quy định “Đối với trường hợp chủ phương tiện đã bán phương tiện dạng nguyên chiếc cho người khác thì không thuộc đối tượng hổ trợ…..” Qua đối chiếu các chứng cứ và các văn bản trên, trường hợp xe độ của anh N đã bán phương tiện dạng nguyên chiếc, và thực hiện chuyển đổi phương tiện trước thời điểm được hỗ trợ. Do có sự nhầm lẫn nên cán bộ chính quyền địa phương đã hướng dẫn kê khai, thẩm định và thủ tục cho anh N nhận tiền hỗ trợ là không có căn cứ pháp luật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 599 BLDS 2005 “Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản của người khác mà không có căn cứ pháp luật thì phải hoàn trả lại cho chủ sở hữu và quy định tại Điều 256 BLDS năm 2005 “Chủ sở hữu người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó….”. Qua trên, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của UBND thị xã A, buộc anh N phải hoàn trả cho UBND thị xã A số tiền 9.000.000đ.

[6] Về nghĩa vụ hoàn trả: Anh N trình bày vợ chồng kết hôn năm 2007, việc mua bán xe và nhận tiền hỗ trợ vợ cũng biết, số tiền nhận được đã chi tiêu cho gia đình hết, các giấy tờ Tòa án gởi vợ chồng đều nhận được, nhưng vì công việc mua bán, vợ không đến Tòa, ý kiến của vợ như lời trình bày của anh. Căn cứ Điều 27 và Điều 37 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 thì vợ chồng anh N - chị N phải cùng có nghĩa vụ hoàn trả số tiền trên .

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm b Khoản 1 Điều 11 và Khoản 2 Điều 26 tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc Hội, vợ chồng anh N - chị N phải chịu án phí là (9.000.000đ x 5%) = 450.000đ, UBND thị xã An không phải chịu án phí.

[8] Qua đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã A phù hợp với nhận định trên nên HĐXX chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 2 Điều 26, Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39, Điều 147, 227, 228, 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng Điều 256 và Điều 599 Bộ luật dân sự 2005; Điều 155 và Điều 688 Bộ luật dân sự 2015; Điều 27 và Điều 37 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; Điểm b Khoản 1 Điều 11 và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc Hội;

Tuyên xử:

1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi tài sản của Ủy ban nhân dân thị xã A. Buộc vợ chồng anh Võ Khắc N -chị Huỳnh Thị N hoàn trả cho UBND thị xã A số tiền 9.000.000.đ (Chín triệu đồng), tiền đã nhận hỗ trợ về chuyển đổi nghề và mua xe tải để thay thế xe độ thuộc diện bị đình chỉ tham gia giao thông, do sai đối tượng được hỗ trợ.

2. Về án phí: Vợ chồng anh Võ Khắc N -chị Huỳnh Thị N phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 450.000đ (Bốn trăm năm mươi nghìn đồng), UBND thị xã A không phải chịu án phí.

3.Về nghĩa vụ thi hành án:

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án), hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả khác khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Quyền kháng cáo: Anh Võ Khắc N có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, riêng UBND thị xã A và chị Huỳnh Thị N vắng mặt tại phiên tòa, thì thời hạn kháng cáo 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

492
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 192/2017/DS-ST ngày 15/09/2017 về tranh chấp đòi lại tài sản

Số hiệu:192/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã An Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về