Bản án 19/2021/HS-ST ngày 19/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

 TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 19/2021/HS-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 317/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 355/2020/QDXXST-HS ngày 05/01/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Hữu Đ, sinh năm 1990, tại Đắk Nông; Nơi ĐKHKTT: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Đắk Nông; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: buôn bán; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Trần Việt H và bà Nguyễn Thị L; bị cáo có 03 anh em: lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 2011; Vợ: Nguyễn Thị Nhi E, có 01 con sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 10/6/2020 và tạm giam cho đến nay; Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1968; địa chỉ: số A, khu phố B, thị trấn C, huyện C, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Vắng mặt.

Người làm chứng: Ông Nguyễn Thế A; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00 ngày 09/6/2020, Trần Hữu Đ nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng nên Đ điện thoại cho người bạn tên S (hiện chưa xác định rõ họ tên và địa chỉ cư trú) thông qua ứng dụng mạng xã hội Zalo để hỏi S chỗ bán ma túy. Khoảng 30 phút sau, có người đàn ông (hiện chưa xác định rõ nhân thân, lai lịch) gọi đến số điện thoại của Đ và hỏi Đ muốn ma túy không thì Đ nói muốn mua ma túy đá Methamphetamine với số tiền 2.000.000đ. Người đàn ông này đồng ý bán và kêu Đ đi đến gần quán Trần Long tại đường Trần Bình Trọng, phường Phú Thọ, thành phố T, tỉnh Bình Dương để lấy ma túy. Sau đó, Đ đón xe ôm Grab đến địa điểm trên và gặp người đàn ông bán ma túy và đưa cho người này số tiền 2.000.000đ thì người này chỉ vào chỗ gói thuốc lá hiệu Craven nằm trên mặt đường gần đó rồi bỏ đi. Đ nhặt gói thuốc lá hiệu Craven bỏ vào túi quần rồi đón xe ôm quay về phòng trọ của bạn gái Đ tên Trần Thị Thanh D. Khoảng 00 giờ 10 phút ngày 10/6/2020, D nhận được điện thoại của người bạn tên Nguyễn Thế A rủ chơi game thì Đ kêu Thế A đến phòng trọ của Dương để chơi với Đ. Khi Thế A đến phòng trọ của D thì cùng Đ sử dụng chung ma túy. Thế A điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner màu trắng đen, biển số 72G1-518.26 chở Đ đến quán karaoke Vân Anh, tại phường An Thạnh, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương để ca hát và uống rượu bia với nhóm bạn của Thế A. Tại đây, có một người thanh niên (hiện chưa xác định rõ nhân thân, lai lịch) đưa cho Đ 02 nửa viên nén màu xanh là ma túy tổng hợp và 01 gói ma túy đá mời Đ sử dụng, nhưng Đ không sử dụng ngay mà cất giấu vào túi quần bên phải. Việc Đ nhận và cất giấu số ma túy này Thế A không biết. Khoảng hơn 01 giờ 00 ngày 10/6/2020, Thế A chở Đ quay về phòng trọ của D và cả hai tiếp tục sử dụng chung ma túy. Khoảng 03 giờ 30 cùng ngày, khi Thế A chở Đ tìm quán ăn tối, khi đến gần quán 18E địa chỉ số 68, khu phố 7, phường Phú Hòa, thành phố T, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng tuần tra thuộc Phòng cảnh sát cơ động (PK02)-Công an tỉnh Bình Dương trên đường tuần tra, kiểm soát đảm bảo an ninh trật tự thấy nghi vấn nên yêu cầu Thế A dừng xe kiểm tra thì phát hiện bên trong 01 túi xách da màu đen treo ở đầu xe mô tô biển số 72G1-518.26 có 01 hộp thuốc hiệu Craven bên trong 02 bịch nylon có 02 nửa viên nén màu xanh được gói trong tờ tiền mệnh giá 2.000đ và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, đồng thời Đ khai nhận các đồ vật nêu trên là của Đ và tinh thể màu trắng trong 02 bịch nylon, có kích thước lần lượt là 05x10cm và 01x03cm đều có chứa tinh thể màu trắng; 02 nửa viên nén màu xanh được gói trong tờ tiền mệnh giá 2.000đ; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 túi xách da màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, có số Imei: 35657183393439 có sim số thuê bao 0933.241.388 và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner màu trắng đen, biển số 72G1-518.26. Sau đó, Công an phường Phú Hòa chuyển giao toàn bộ hồ sơ vụ việc cùng số vật chứng thu giữ được và đối tượng Trần Hữu Đ cho Cơ quan điều tra Công an thành phố T để giải quyết theo thẩm quyền.

Căn cứ Kết luận giám định số 348/MT-PC09 ngày 18/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: mẫu tinh thể màu trắng trong 01 (một) túi nylon miệng kéo dính (ký hiệu M1), mẫu tinh thể màu trắng trong 01 (một) gói nylon hàn kín (ký hiệu M2) và 02 nửa viên nén màu xanh (ký hiệu M3) trong 01 (một) tờ tiền mệnh giá 2.000đ, tất cả được chứa trong trong 01 bì thư được niêm phong có chữ ký người bị bắt Trần Hữu Đ, cán bộ niêm phong Lê Huỳnh Long và hình dấu đỏ Công an phường Phú Hòa, thành phố Thủ Dầu Một là ma túy, có tổng khối lượng 3,9062 gam, gồm: 3,4282 gam (M1) và 0,2194 gam (M2), loại Methamphetamine (đã được niêm phong); 0,2586 gam (M3) có thành phần ma túy; nhưng do mẫu có nhiều chất nên có phương pháp thể hiện đặc trưng chưa rõ ràng, Phòng PC09 đề nghị Cơ quan điều tra Công an thành phố T chuyển toàn bộ mẫu vật còn lại (0,2024 gam) đến Phân viện khoa học hình sự (C09B)-Bộ công an để giám định (đã được niêm phong).

Căn cứ Kết luận giám định số 4510/C09B ngày 09/9/2020 của Phân viện khoa học hình sự (C09B)-Bộ công an, kết luận: nhiều mảnh vỡ vụn nhỏ viên nén màu xanh trong 01 gói nylon có ghi M3 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, MDMA, Isopropylphenidate; khối lượng đã được Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương trả lời trong kết luận giám định số 348/MT-PC09 ngày 18/6/2020.

Hoàn lại đối tượng giám định: mảnh vỡ vụn nhỏ viên nén màu xanh đã sử dụng hết cho công tác giám định.

Đối với số ma túy hoàn lại sau giám định, gồm: 3,0416 gam (M1) và 0,0812 gam (M2), loại Methamphetamine kèm theo tờ tiền mệnh giá 2.000đ (đã được niêm phong) và một số vật chứng khác, gồm: 01 hộp thuốc hiệu Craven; 01 túi xách da màu đen, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T ra quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T để đề nghị Tòa án tịch thu, tiêu hủy đối với số ma túy hoàn lại sau giám định, 01 hộp thuốc Craven, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 01 túi xách da màu đen; tịch thu, sung công quỹ nhà nước tờ tiền mệnh giá 2.000đ.

Đối với điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, có số Imei 35657183393439 có sim số thuê bao 0933.241.388 đã thu giữ của Trần Hữu Đ. Quá trình điều tra xác định là tài sản của cá nhân Đ, không liên quan đến hành vi phạm tội nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố T ra quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T để đề nghị Tòa án quyết định trả lại Đ.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner màu trắng đen, biển số 72G1-518.26, số khung 2600GY106608, số máy KC26E1142529 thu giữ của Nguyễn Thế A, quá trình điều tra xác định: Xe mô tô trên do Nguyễn Văn N (ông N là cha ruột của Nguyễn Thế A) đứng tên trên giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô. Khoảng đầu tháng 06/2020, ông N giao xe cho Thế A sử dụng làm phương tiện đi lại. Ngày 12/6/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T ra Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu số 116/QĐ/CQ.CSĐT giao trả xe mô tô biển số 72G1-518.26 cho ông N.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Thế A, ngày 31/10/2020 Công an thành phố T đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 111/QĐ-XPHC xử phạt Nguyễn Thế A số tiền 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

Đối với người nam đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Trần Hữu Đ, quá trình điều tra do chưa xác định rõ họ tên và địa chỉ cư trú nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một sẽ tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Cáo trạng số 322/CT-VKS-HS ngày 18/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo Trần Hữu Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 03 năm 06 tháng tù đến 04 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong có chữ ký người bị bắt Trần Hữu Đ, cán bộ niêm phong Lê Huỳnh L, Nguyễn Thành T và hình dấu đỏ Công an phường Phú Hòa, thành phố T, tỉnh Bình Dương, hình dấu đỏ Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa ma túy, trọng lượng sau giám định 3,0146 gam M1; 0,0812 gam M2; 01 (một) gói thuốc hiệu Craven; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 (một) túi xách da màu đen. Tịch thu, sung công quỹ nhà nước tờ tiền mệnh giá 2.000đ. Trả cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, có số Imei 35657183393439.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Hữu Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản niêm phong, kết luận giám định cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 03 giờ 30 ngày 10/6/2020, tại khu vực phường Phú Hòa, thành phố T, tỉnh Bình Dương, bị cáo Trần Hữu Đ bị bắt quả tang khi có hành vi tàng trữ trái phép các chất ma túy có tổng khối lượng là 3,9062 gam; gồm: 3,4282 gam (M1) và 0,2194 gam (M2), loại Methamphetamine và 0,2586 gam bao gồm các loại Methamphetamine, MDMA, Isopropylphenidate nhằm mục đích sử dụng, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây tác hại lớn đến nhiều mặt của đời sống xã hội, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Ma túy không chỉ gây tác hại đến sức khỏe, nhân cách con người, mà còn cản trở sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ma túy cũng chính là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Bị cáo biết tác hại của ma túy và biết hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Nhưng vì nhu cầu của bản thân nên bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[6] Căn cứ vào nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là cao đối với hành vi mà bị cáo thực hiện. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp hơn đề nghị của Viện kiểm sát.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) bì thư niêm phong có chữ ký người bị bắt Trần Hữu Đ, cán bộ niêm phong Lê Huỳnh L, Nguyễn Thành T và hình dấu đỏ Công an phường Phú Hòa, thành phố T, tỉnh Bình Dương, hình dấu đỏ Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa ma túy, trọng lượng sau giám định 3,0146 gam M1; 0,0812 gam M2 là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) gói thuốc hiệu Craven; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) túi xách da màu đen thu giữ của bị cáo không có giá trị sử dụng nên căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

Đối với tờ tiền mệnh giá 2.000đ bị cáo sử dụng gói ma túy cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước quy định điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với 01 (một) điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, có số Imei: 35657183393439 (không kiểm tra chi tiết, tình trạng hoạt động) không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[8] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ các Điều 106, 136, 260, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Trần Hữu Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1/ Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Hữu Đ 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/6/2020.

2/ Về xử lý vật chứng:

 - Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư niêm phong có chữ ký người bị bắt Trần Hữu Đ, cán bộ niêm phong Lê Huỳnh L, Nguyễn Thành T và hình dấu đỏ Công an phường Phú Hòa, thành phố T, tỉnh Bình Dương, hình dấu đỏ Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa ma túy, trọng lượng sau giám định 3,0146 gam M1; 0,0812 gam M2. (Theo Kết luận giám định số 348/MT-PC09 ngày 18/6/2020 và số 4510/C09B ngày 09/9/2020); 01 (một) gói thuốc hiệu Craven; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 (một) túi xách da màu đen.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước tờ tiền mệnh giá 2.000đ (Hai nghìn đồng).

- Trả cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, có số Imei: 35657183393439 (không kiểm tra chi tiết bên trong và tình trạng hoạt động).

(Thể hiện tại biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 035.21 ngày 23/11/2020 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T và Công an thành phố T).

3/ Về án phí: Buộc bị cáo Trần Hữu Đ phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4/ Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nên được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo luật định.  

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2021/HS-ST ngày 19/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:19/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về