Bản án 19/2021/HNGĐ-ST ngày 27/05/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 19/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/05/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 27 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình xét xử công khai vụ án thụ lý số 33/2021/TLST - HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2021 về “ Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự

- Chị Hoàng Thị S, sinh năm 1993; ĐKHKTT: xóm 6, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; Hiện trú tại: Thôn T, ấp A, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai ( vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt)

- Anh Đỗ Văn P, sinh năm 1989; ĐKHKTT: xóm 4, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; Hiện đang chấp hành biện pháp cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 7, địa chỉ: Thôn X, xã X, thị xã S, thành phố Hà Nội ( vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Hoàng Thị S trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án trình bày: chị và anh Đỗ Văn P kết hôn trên cơ sở tự do tìm hiểu có đăng ký kết hôn tại UBND xã K năm 2015. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại xóm 4, xã K một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn.

Theo chị S nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, lối sống, anh P chơi bời, không tu chí làm ăn. Sau đó chị phát hiện anh P nghiện ma túy. Mặc dù chị và gia đình đã nhiều lần khuyên giải nhưng anh P không từ bỏ mà nhiều lần anh P còn chửi bới, xúc phạm chị. Vì không thể chịu đựng được, chị bỏ vào Đồng Nai làm ăn, ly thân với anh P từ tháng 6/2016. Trong thời gian sống ly thân, chị và anh P không có trao đổi, liên lạc gì. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể quay về chung sống, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh P để chị ổn định cuộc sống.

Về con chung và tài sản chung: Chị S xác định vợ chồng không có con chung, không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết Vì bận công việc nên chị Sáng có đơn xin xét xử vắng mặt.

Bị đơn Đỗ Văn P trong bản tự khai ngày 08/4/2021 trình bày:

Anh xác nhận điều kiện, thời gian kết hôn như chị S đã trình bày. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống tại xóm 4, xã K được 1 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, hơn nữa anh và chị S không hòa hợp với nhau về chuyện tình cảm và chưa có con chung. Vợ chồng thường xảy ra cãi vã to tiếng với nhau. Đến tháng 5/2016 do mâu thuẫn vợ chồng, chị S tự ý bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, vợ chồng anh sống ly thân từ đó đến nay. Trong thời gian sống ly thân anh chị không còn quan tâm, không còn quan hệ tình cảm với nhau nữa. Nay chị S yêu cầu ly hôn, anh hoàn toàn nhất trí, đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn Về con chung và tài sản chung: Anh P xác định vợ chồng không có con chung, không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết Do anh P đang phải chấp hành án tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 7 nên anh xin vắng mặt trong các buổi tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và khi xét xử vụ án.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K về tố tụng: nguyên đơn, bị đơn và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của BLTTDS.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K về hướng giải quyết vụ kiện: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56 Luật Hôn nhân gia đình; Điều 147, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQUBTVQH14: Xử ly hôn giữa chị Hoàng Thị S và anh Đỗ Văn P; chị S phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Chị Hoàng Thị S khởi kiện yêu cầu giải quyết việc ly hôn với anh Đỗ Văn P, có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xóm 4, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; căn cứ quy định tại điều 28 và 39 BLTTDS vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện K. Nguyên đơn, bị đơn đều được tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử hợp lệ nhưng nguyên đơn, bị đơn đều xin được xét xử vắng mặt, căn cứ khoản 3 Điều 228 BLTTDS Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị S và anh Đỗ Văn P kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn năm 2015 tại UBND xã K, là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật HNGĐ; sau khi kết hôn vợ chồng chỉ chung sống một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn Theo chị S, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, anh P chơi bời, không tu chí làm ăn và nghiện ma túy. Mặc dù chị và gia đình đã nhiều lần khuyên giải nhưng anh P không từ bỏ. Do vậy chị phải bỏ đi làm ăn xa, sống ly thân với anh P từ tháng 5/2016 đến nay không ai quan tâm đến ai. Về phía anh P, anh cho rằng vợ chồng anh có xảy ra mâu thuẫn nhưng nguyên nhân là do anh chị bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, không hòa hợp với nhau trong quan hệ tình cảm và chưa có con chung. Anh cũng xác định vì mâu thuẫn nên vợ chồng đã ly thân từ tháng 5/2016 đến nay. Nay chị S yêu cầu ly hôn, anh hoàn toàn nhất trí và chủ động xin vắng mặt tại phiên hòa giải cũng như phiên xét xử Như vậy mặc dù chị S và anh P xác định nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng là khác nhau nhưng anh chị đều khẳng định vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 5/2016, trong thời gian ly thân không còn trao đổi, quan hệ tình cảm gì với nhau nữa, Như vậy có đủ căn cứ xác định giữa chị S và anh P trong quá trình chung sống đã xảy ra mâu thuẫn do bất đồng về tính cách quan điểm sống. Mặc dù vợ chồng và gia đình hai bên đã hòa giải nhiều lần nhưng mâu thuẫn không khắc phục được, dẫn đến vợ chồng đã có thời gian dài sống ly thân, không còn quan tâm đến cuộc sống chung nữa; cả chị S và anh P đều xác định không thể quay về chung sống với nhau được nữa.

Từ những căn cứ đó đã có đủ cơ sở xác định tình trạng hôn nhân của anh P, chị S hiện nay đã trầm trọng, mâu thuẫn không thể khắc phục, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể duy trì cuộc sống chung; căn cứ quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân gia đình, yêu cầu của chị S giải quyết ly hôn anh Phúc là có căn cứ được chấp nhận.

[3] Về quan hệ con chung và tài sản chung: Chị Hoàng Thị S và anh Đỗ Văn P đều xác định không có con chung, không có tài sản chung nên HĐXX không xem xét.

[5] Về án phí: Căn cứ quy định tại điều 147 BLTTDS và Nghị quyết 326/2016/NQUBTVQH14 buộc chị S phải nộp toàn bộ án phí ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56 Luật HNGĐ; Điều 147, 228 BLTTDS và Nghị quyết 326/2016/NQUBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Xử ly hôn giữa chi Hoàng Thị S và anh Đỗ Văn P.

2/ Về án phí: chị Hoàng Thị S phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA0002534 ngày 01/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2021/HNGĐ-ST ngày 27/05/2021 về ly hôn

Số hiệu:19/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về