Bản án 19/2021/HNGĐ-ST ngày 23/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ TÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

 BẢN ÁN 19/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 23 tháng 6 năm 2021 tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 32/2021/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lý Thị Thanh N; Cư trú: Số 26, ấp Phương H, xã Hưng P, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T (vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Lê Nguyên K; Cư trú: Số 26, ấp Phương H, xã Hưng P, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 25 tháng 02 năm 2021 nguyên đơn chị Lý Thị Thanh N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Lý Thị Thanh N và anh Lê Nguyên K tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đại T, thị xã Tân H, tỉnh Hậu G vào ngày 29 tháng 6 năm 2006. Anh chị chung sống hạnh phúc được một thời gian, nhưng thời gian sau thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cãi nhau, làm cho cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc. Anh chị không còn chung sống từ đầu năm 2020 cho đến nay.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân anh chị có 03 con chung tên Lê Nhã V, sinh ngày 30 tháng 6 năm 2008, Lê Xuân T, sinh ngày 11 tháng 12 năm 2010 và Lê Khả Á, sinh ngày 20 tháng 6 năm 2016, hiện nay các cháu đang sống với chị N.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Chị Lý Thị Thanh N yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lý Thị Thanh N yêu cầu được ly hôn với anh Lê Nguyên K.

- Về con chung: Chị Lý Thị Thanh N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 03 con chung tên Lê Nhã V, sinh ngày 30 tháng 6 năm 2008, Lê Xuân T, sinh ngày 11 tháng 12 năm 2010 và Lê Khả Á, sinh ngày 20 tháng 6 năm 2016 và yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 20 tháng 4 năm 2021 chị N thay đổi một phần nội dung yêu cầu khởi kiện, chị N không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.

Đối với bị đơn anh Lê Nguyên K: Sau khi thụ lý vụ án, bị đơn không có mặt tại địa phương nên Tòa án không thể tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng của Tòa án cho bị đơn được. Do đó, Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai cho bị đơn các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự: Quyết định phân công giải quyết vụ án; Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đương sự.

Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

- Về tố tụng: Việc Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với nguyên đơn tại phiên tòa hôm nay đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định của pháp luật. Riêng bị đơn chưa chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung giải quyết vụ án: Chị N và anh K chung sống có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, thời gian đầu anh chị chung sống hạnh phúc, nhưng đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, anh chị không còn chung sống từ đầu năm 2020 cho đến nay; Về con chung tên Lê Nhã V, sinh ngày 30 tháng 6 năm 2008, Lê Xuân T, sinh ngày 11 tháng 12 năm 2010 và Lê Khả Á, sinh ngày 20 tháng 6 năm 2016, các cháu đang sống với chị N, tiếp tục giao các cháu cho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; Về tài sản chung và nợ chung không có yêu cầu giải quyết. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lý Thị Thanh N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Tòa án triệu tập hợp lệ nguyên đơn để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm, nhưng nguyên đơn có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Xét thấy, việc vắng mặt của nguyên đơn không gây trở ngại cho việc xét xử. Vì vậy, căn cứ điểm a khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn.

- Tòa án niêm yết công khai các văn bản tố tụng cho bị đơn đến lần thứ hai để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp giữa các đương sự là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn cư trú số 26, ấp Phương H, xã Hưng P, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[3] Tại biên bản lấy lời khai ngày 20 tháng 4 năm 2021 nguyên đơn xin thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, việc thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện. Căn cứ khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận sự thay đổi này của nguyên đơn.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, chị Lý Thị Thanh N và anh Lê Nguyên K kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không ai ép buộc và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đại T, thị xã Tân H, tỉnh Hậu G và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 78, Quyển số: 01 ngày 29 tháng 6 năm 2006. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa anh chị là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận. Căn cứ khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình thì chị N có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh K.

[5] Xét lý do xin ly hôn của chị N, Hội đồng xét xử thấy rằng: Sau khi kết hôn chị N và anh K chung sống với nhau có 03 con chung. Tuy nhiên, chị N và anh K phát sinh mâu thuẫn từ năm 2016, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cãi nhau, làm cho cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, hiện nay mỗi người sống một nơi, không quan tâm, chăm sóc cho nhau, anh chị không còn chung sống với nhau từ đầu năm 2020 cho đến nay. Tòa án đã triệu tập anh chị để hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ, nhưng anh K không có mặt để Tòa án hòa giải đoàn tụ, anh K cũng không có ý kiến gì về việc chị N xin ly hôn, cho thấy anh K không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Như vậy, tình trạng hôn nhân của anh chị cũng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị N.

[6] Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân chị N và anh K có 03 con chung tên Lê Nhã V, sinh ngày 30 tháng 6 năm 2008, Lê Xuân T, sinh ngày 11 tháng 12 năm 2010 và Lê Khả Á, sinh ngày 20 tháng 6 năm 2016, các con hiện nay đang sống chung với chị N. Xét thấy, từ khi anh chị không còn chung sống với nhau 03 cháu chị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, về mặt tình cảm thì 03 cháu gắn bó và yêu mến chị N nhiều hơn anh K, Tòa án có ghi ý kiến cháu V và cháu T, 02 cháu có nguyện vọng sống chung với chị N, hơn nữa 03 cháu là giới nữ nên cần sự chăm sóc, nuôi dưỡng của người mẹ, điều kiện chăm sóc của chị N thuận lợi hơn anh K, còn anh K hiện nay không còn ở địa phương, thỉnh thoảng mới về thăm nhà, không thuận tiện cho việc chăm sóc các con, nhằm ổn định cuộc sống về mặt vật chất cũng như tinh thần. Căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục giao con chung tên Lê Nhã V, sinh ngày 30 tháng 6 năm 2008, Lê Xuân T, sinh ngày 11 tháng 12 năm 2010 và Lê Khả Á, sinh ngày 20 tháng 6 năm 2016 cho chị N nuôi dưỡng đến khi 03 cháu đủ 18 tuổi.

[7] Về nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Căn cứ khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình, anh K là người không trực tiếp nuôi con nên anh K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, mà không ai được cản trở.

[8] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị N có khả năng nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[9] Về tài sản chung: Không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét. [10] Về nợ chung: Không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

[11] Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị N là người có đơn xin ly hôn, chị N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; khoản 1 Điều 244; khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81; khoản 3 Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lý Thị Thanh N và anh Lê Nguyên K.

2. Về con chung: Tiếp tục giao con chung tên Lê Nhã V, sinh ngày 30 tháng 6 năm 2008, Lê Xuân T, sinh ngày 11 tháng 12 năm 2010 và Lê Khả Á, sinh ngày 20 tháng 6 năm 2016 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các con đủ 18 tuổi. Anh K không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Không có yêu cầu nên không xem xét.

4. Về nợ chung: Không có yêu cầu nên không xem xét.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lý Thị Thanh N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008962 ngày 25 tháng 02 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, chị N đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại Ủy ban nhân dân nơi cư trú, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 19/2021/HNGĐ-ST ngày 23/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:19/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Tú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về