Bản án 19/2021/DS-ST ngày 29/01/2021 về tranh chấp hợp đồng giao khoán

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 19/2021/DS-ST NGÀY 29/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GIAO KHOÁN

Ngày 29 tháng 01 năm 2021, tại hội trường Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 144/2020/TLST-DS ngày 18/6/2020, số 787/2020/TLST-DS ngày 21/8/2020 và Quyết định nhập vụ án số 08/2021/QĐST-DS ngày 11 tháng 01 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng giao khoán” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2021/QĐXXST-DS ngày 11 tháng 01 năm 2021, giữa:

- Nguyên đơn:

- Ông Nguyễn Tấn T, sinh năm 1979; Nơi cư trú: Thôn L, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk ( Có mặt).

- Ông Trần Hữu T1, sinh năm 1977; Nơi cư trú: Thôn 16, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt).

- Bị đơn: Công ty Cổ phần cà phê TL.

Địa chỉ: Km 17, Quốc lộ 26, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Hoàng P, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng thành viên.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn Công ty Cổ phần cà phê TL: Ông Phạm Đình B, sinh năm 1957.

Địa chỉ: đường D, phường T, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Tấn T trình bày:

Vào ngày 30/8/2017, ông Nguyễn Tấn T có đơn xin hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên gửi Công ty TNHH một thành viên cà phê TL (Nay là Công ty Cổ phần cà phê TL) để nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối trồng năm 2013 của Công ty có diện tích 9910m2.

Ngày 01/9/2017 giữa ông T và Công ty đã ký Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số 81/2017/HĐ-GK với nhau, theo hợp đồng trên thì: Ông T đã nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối của Công ty có diện tích 9910m2, diện tích bờ lô 1439m2. Địa điểm đất giao khoán thuộc đội 30/4, thửa đất số 05, tờ bản đồ số 05, địa chỉ thửa đất: thuộc xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nguyên giá vườn cây khi nhận khoán có giá là: 141.379.619 đồng; Giá trị vườn cây còn lại: 134.310.638 đồng. Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%. Thời hạn giao khoán là 15 năm. Kể từ khi nhận khoán vườn cây cho đến niên vụ cà phê 2017-2018, ông T đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây cũng như thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm theo Hợp đồng. Tuy nhiên, đến năm 2018 thì ông T phát hiện Công ty có sự gian lận. Cụ thể: Ông T phát hiện Công ty đã gian lận chi phí nhân công cho diện tích 01ha trong 07 năm (từ năm 2011-2017) là 86.954.753,2 đồng (Bình quân một năm Công ty gian lận là 12.422.107,6 đồng/năm); Công ty đã gian lận sản phẩm cà phê quả tươi làm thành cà phê quy nhân cho diện tích 01ha trong 07 năm (từ năm 2011-2017) là 3.038kg cà phê quả tươi, giá tiền: 8.000 đồng/kg, thành tiền là 24.304.000 đồng (Bình quân một năm là 434kg, giá tiền 8.000 đồng/kg, thành tiền là 3.472.000 đồng/năm); Công ty đã gian lận tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2018) mà Công ty không trả cho ông phần 51% lẽ ra Công ty phải chịu với số tiền là 7.344.000 đồng (Bình quân một năm là 918.000 đồng/năm). Mặc dù, hợp đồng diện tích nhận khoán của ông là 9910m2 nhưng ông vẫn yêu cầu bằng diện tích 01ha.

Theo đơn khởi kiện thì ông T yêu cầu Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả tổng số tiền là 118.602.753,2 đồng. Tuy nhiên, sau khi xem xét lại hợp đồng được ký kết vào năm 2017 nên quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm ông T xin rút một phần yêu cầu khởi kiện buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại cho ông chi phí nhân công cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 86.954.753,2đồng, cà phê tươi quy nhân cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 24.304.000đồng; tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2016) số tiền 5.508.000đồng. Tổng cộng là 116.766.753,2 đồng.

Đối với tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha năm 2017, 2018 số tiền 1.836.000 đồng, ông Nguyễn Tấn T đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại cho ông. Ngoài ra ông T không có yêu cầu gì thêm.

* Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn ông Trần Hữu T1 trình bày:

o ngày 18/5/2017, ông T1 có đơn xin hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên gửi Công ty TNHH một thành viên cà phê TL (Nay là Công ty Cổ phần cà phê TL) để nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối trồng năm 1988 và năm 1994 của Công ty có diện tích 8.580m2 và 5.000m2. Ngày 19/5/2017 giữa ông T1 và Công ty đã ký 02 Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số 11a/2017/HĐ-GK và 11b/2017/HĐ-GK với nhau.

Theo hợp đồng số 11a/2017/HĐ-GK ngày 19/5/2017 thì: Ông T1 đã nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối của Công ty có diện tích 8.580m2. Địa điểm đất giao khoán thuộc đội 16, thửa đất số 29, tờ bản đồ số 15, địa chỉ thửa đất: thuộc xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nguyên giá vườn cây khi nhận khoán có giá là: 40.656.589 đồng; Giá trị vườn cây còn lại: 15.058.573 đồng. Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%. Thời hạn giao khoán là 03 năm.

Theo hợp đồng số 11b/2017/HĐ-GK ngày 19/5/2017 thì: Tôi đã nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối của Công ty có diện tích 5.000m2. Địa điểm đất giao khoán thuộc đội 16, thửa đất số 34b, tờ bản đồ số 16, địa chỉ thửa đất: thuộc xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nguyên giá vườn cây khi nhận khoán có giá là: 20.423.677 đồng; Giá trị vườn cây còn lại: 6.135.614 đồng. Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%. Thời hạn giao khoán là 04 năm.

Kể từ khi nhận khoán vườn cây cho đến niên vụ cà phê 2017-2018, ông T1 đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây cũng như thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm theo Hợp đồng. Tuy nhiên, đến năm 2018 thì ông T1 phát hiện Công ty có sự gian lận. Cụ thể: Ông T1 phát hiện Công ty đã gian lận chi phí nhân công cho diện tích 01ha trong 07 năm (từ năm 2011-2017) là 86.954.753,2 đồng (Bình quân một năm Công ty gian lận là 12.422.107,6 đồng/năm); Công ty đã gian lận sản phẩm cà phê quả tươi làm thành cà phê quy nhân cho diện tích 01ha trong 07 năm (từ năm 2011-2017) là 3.038kg cà phê quả tươi, giá tiền: 8.000 đồng/kg, thành tiền là 24.304.000 đồng (Bình quân một năm là 434kg, giá tiền 8.000 đồng/kg, thành tiền là 3.472.000 đồng/năm); Công ty đã gian lận tiền thủy lợi phí tiền thuê giếng tưới cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2018) mà Công ty không trả cho tôi phần 51% lẽ ra Công ty phải chịu với số tiền là 7.344.000 đồng (Bình quân một năm là 918.000 đồng/năm). Mặc dù, hợp đồng diện tích nhận khoán của ông với Công ty là (8.580m2 + 5.000m2) = 13.580m2 (1,358ha) nhưng ông T1 vẫn yêu cầu bằng diện tích 01ha.

Theo đơn khởi kiện thì ông T yêu cầu Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả tổng số tiền là 118.602.753,2 đồng. Tuy nhiên, sau khi xem xét lại hợp đồng được ký kết vào năm 2017 nên quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm ông T1 xin rút một phần yêu cầu khởi kiện buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại cho ông chi phí nhân công cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 86.954.753,2đồng, cà phê tươi quy nhân cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 24.304.000đồng; tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2016) số tiền 5.508.000đồng. Tổng cộng là 116.766.753,2 đồng.

Đối với tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha năm 2017, 2018 số tiền 1.836.000 đồng, ông Trần Hữu T1 đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại cho ông. Ngoài ra ông T1 không có yêu cầu gì thêm.

* Đại diện theo ủy quyền của bị đơn Công ty Cổ phần cà phê TL, ông Phạm Đình B trình bày:

Công ty Cổ phần cà phê TL (Trước đây là Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cà phê TL) thừa nhận là giữa Công ty với ông Nguyễn Tấn T, ông Trần Hữu T1 có ký hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê với nhau, cụ thể: ông T với Công ty có ký kết hợp đồng số 81/2017/HĐ-GK ngày 01/9/2017, ông T1 với Công ty có ký kết 02 hợp đồng số 11a và 11b/2017/HĐ-GK ngày 19/5/2017. Kể từ khi nhận khoán vườn cây cho đến niên vụ cà phê 2017-2018, ông T, ông T1 đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây cũng như thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm theo hợp đồng. Tuy nhiên, đến niên vụ thu hoạch cà phê 2018-2019 và 2019- 2020 ông T, ông T1 đã không thực hiện nghĩa vụ giao nộp sản phẩm cà phê quả tươi cho Công ty theo đúng cam kết trong hợp đồng, là vi phạm hợp đồng giao khoán đã ký kết nhưng Công ty chưa tiến hành khởi kiện.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, các nguyên đơn rút một phần nội dung yêu cầu khởi kiện thì Công ty Cổ phần cà phê TL không có ý kiến gì. Còn đối với yêu cầu khởi kiện của ông T, ông T1 về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha năm 2017, 2018 cho mỗi ông số tiền 1.836.000 đồng, Công ty không chấp nhận, vì: Công đoạn tưới nước là một công đoạn chủ yếu của việc sản xuất kinh doanh cây cà phê, do đó, về công lao động đã được tính vào chi phí sản xuất trên 01ha cà phê. Tại trang 9, 10 của Phương án khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt đã ghi rõ các khoản mục trong cấu thành giá thành sản xuất “Tiền khấu hao hồ đập kênh mương là 500.000 đồng/ha/năm, trong đó phần 51% là 255.000 đồng/ha/năm” vào giá thành (Khấu trừ ăn chia sản phẩm). Đồng thời, tại mục 1 Điều 1 của hợp đồng được ký kết giữa các nguyên đơn với Công ty thì “Bên A khoán gọn vườn cây cà phê cho bên B trực tiếp đầu tư, chăm sóc, bảo vệ thu hoạch và giao nộp sản phẩm cà phê...”. Như vậy, mặc dù trong hợp đồng giao khoán hai bên chỉ đề cập đối với hệ thống hồ đập, kênh mương không đề cập đến việc tưới giếng, nhưng thực chất Công ty đã trả 255.000 đồng/ha/năm là hoàn toàn công bằng giữa người tưới mương và tưới giếng. Mặt khác, theo thông báo số 61/UB-VPUBND ngày 08/4/2019 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk có nêu: “…việc đào giếng tưới và sử dụng giếng tưới cho vườn cây nhận khoán là của người dân, nhà nước không chi trả”. Do đó, Công ty không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông T, ông T1 về việc buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước.

Phần tranh luận tại phiên tòa:

Nguyên đơn ông Nguyễn Tấn T, ông Trần Hữu T1 tranh luận: Giữ nguyên yêu cầu về việc buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại cho nguyên đơn số tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước, vì: Dựa vào thực tế, vườn cây không thể tưới bằng kênh mương, diện tích vườn cây nhận khoán của các hộ dân cách xa hệ thống kênh mương của Công ty, khi không có nước tưới thì sản lượng cà phê giảm sút. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại cho các nguyên đơn số tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước năm 2017, 2018.

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn Công ty Cổ phần cà phê TL (Trước đây là Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cà phê Thắng Lợi), ông Phạm Đình Bộ tranh luận: Bị đơn Công ty Cổ phần cà phê TL không đồng ý đối với yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn ông T, ông T1 đề nghị Tòa án xem xét không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; điểm c khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015; Các Điều 388, 390, 392, 412, 414, 501, 502, 503 của Bộ luật dân sự năm 2005; Các Điều 7, 8, 9, 10, 12 Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005 của Chính phủ; Thông tư số 102/2006/TT- BNN ngày 13 tháng 11 năm 2006 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn; Luật đất đai năm 2003.

1. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Tấn T:

- Bác một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Tấn T về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại số tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước diện tích 01ha năm 2017, 2018 là 1.836.000 đồng.

- Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Tấn T về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả số tiền 116.766.753,2 đồng.

2. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Hữu T1:

- Bác một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hữu T1 về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại số tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước diện tích 01ha năm 2017, 2018 là 1.836.000 đồng.

- Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hữu T1 về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả số tiền 116.766.753,2 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Về quan hệ tranh chấp: Căn cứ vào đơn khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Tấn T, ông Trần Hữu T1 thì Hội đồng xét xử xác định đây là “Tranh chấp hợp đồng giao khoán” được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn Công ty Cổ phần cà phê TL (Trước đây là Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cà phê Thắng Lợi) có địa chỉ tại xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Theo các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn, bị đơn cung cấp và được hai bên thừa nhận, thì thấy: Giữa ông Nguyễn Tấn T, ông Trần Hữu T1 với Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cà phê Thắng Lợi (Nay là Công ty Cổ phần cà phê TL) có ký kết hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê với nhau, cụ thể: ông Nguyễn Tấn T với Công ty có ký kết hợp đồng số 81/2017/HĐ-GK ngày 01/9/2017, ông Trần Hữu T1 với Công ty có ký kết 02 hợp đồng số 11a và 11b/2017/HĐ-GK ngày 19/5/2017.

Qua xem xét các Hợp đồng trên thì thấy: Đây là hợp đồng song vụ có thời hạn, khi thực hiện việc giao kết hợp đồng các bên đều hoàn toàn tự nguyện và có đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật, về nội dung cũng như hình thức của hợp đồng hai bên đã ký kết không vi phạm pháp luật nên có giá trị pháp lý, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Trong quá trình thực hiện hợp đồng giao khoán thì ông T, ông T1 đều đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây cũng như thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm theo hợp đồng kể từ ngày ký hợp đồng cho đến hết niên vụ cà phê 2017-2018 và các bên không có tranh chấp gì. Do đó, xác định đây là chứng cứ không cần chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Tấn T, ông Trần Hữu T1 về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại cho các ông mỗi người số tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước trong năm 2017,2018 là 1.836.000 đồng. Hội đồng xét xử thấy: Tại Điều 1, 2 của hợp đồng khoán gọn có nêu: “Bên A khoán gọn vườn cây cà phê cho bên B trực tiếp đầu tư, chăm sóc, bảo vệ, thu hoạch và giao nộp sản phẩm cà phê”; “Khi vào vụ tưới nước cho cà phê, Công ty mở nước cho bên B tưới với diện tích tưới mương. Diện tích tưới mương Công ty sẽ thu tiền khấu hao hồ đập kênh mương theo đơn giá quy định tại hội nghị người lao động hằng năm”. Tại trang 9, 10 Bảng phương án khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt đã ghi rõ, trường hợp gia đình tưới nước từ kênh mương của Công ty thì phải trả lại tiền khấu hao kênh mương, thủy lợi cho Công ty phần 49% là 245.000đồng/ha/năm, trong phần tính toán chi phí đầu tư để khấu trừ Công ty đã trả 255.000đồng/ha/năm (Khấu hao kênh mương phần 51%) cho người nhận khoán. Như vậy, căn cứ vào bảng phương án khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk phê duyệt và các hợp đồng mà ông T, ông T1 đã ký với Công ty thì, khi ký kết hợp đồng hai bên không đề cập đến thủy lợi phí là thuê giếng tưới, các bên chỉ đề cập tới khấu hao hồ đập, kênh mương. Đồng thời, tại Thông báo số 61/UB- VPUBND ngày 08/4/2019 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk có nêu: “…việc đào giếng tưới và sử dụng giếng tưới cho vườn cây nhận khoán là của người dân, nhà nước không chi trả;”. Mặt khác, tại thời điểm ký kết và trong quá trình thực hiện hợp đồng thì ông T, ông T1 không có ý kiến gì với Công ty về việc tưới giếng đối với vườn cây nhận khoán. Do đó, căn cứ theo quy định tại các Điều 388, 390, 392, 412, 414, 501, 502, 503 và 506 của Bộ luật dân sự năm 2005 và các Điều 7, 8, 9, 10, 12 của Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005 của Chính phủ; Luật đất đai năm 2003; HĐXX không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn về việc buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, các nguyên đơn ông Nguyễn Tấn T, ông Trần Hữu T1 mỗi nguyên đơn đều rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại chi phí nhân công cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 86.954.753,2đồng, cà phê tươi quy nhân cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 24.304.000đồng; tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2016) số tiền 5.508.000 đồng. Tổng cộng là 116.766.753,2 đồng. Xét thấy, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện, đúng pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ xét xử đối với một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Tấn T, ông Trần Hữu T1.

Ông Nguyễn Tấn T, ông Trần Hữu T1 được quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.

[3] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Tấn T, ông Trần Hữu T1 không được chấp nhận nên ông T, ông T1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị đơn Công ty Cổ phần cà phê TL không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[4] Xét quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa là có căn cứ và đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều Điều 244, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015; Các Điều 388, 390, 392, 412, 414, 501, 502, 503, 506 của Bộ luật dân sự năm 2005; Các Điều 7, 8, 9, 10, 12 của Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ; Thông tư số 102/2006/TT-BNN ngày 13 tháng 11 năm 2006 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn; Luật đất đai năm 2003.

- Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14.

Tuyên xử:

1. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Tấn T:

- Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Tấn T về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại số tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha (năm 2017, 2018) đất giao khoán là 1.836.000 đồng (Một triệu, tám trăm ba mươi sáu nghìn đồng).

- Đình chỉ xét xử đối với một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Tấn T về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại chi phí nhân công cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 86.954.753,2đồng, cà phê tươi quy nhân cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 24.304.000đồng; tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2016) là 5.508.000 đồng. Tổng cộng là 116.766.753,2 đồng (Một trăm mười sáu triệu, bảy trăm sáu mươi sáu nghìn, bảy trăm năm mươi ba phẩy hai đồng).

Ông Nguyễn Tấn T được quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.

2. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Hữu T1:

- Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hữu T1 về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại số tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha (năm 2017, 2018) đất giao khoán là 1.836.000 đồng (Một triệu, tám trăm ba mươi sáu nghìn đồng).

- Đình chỉ xét xử đối với một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hữu T1 về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại chi phí nhân công cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 86.954.753,2đồng, cà phê tươi quy nhân cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 24.304.000đồng; tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2016) là 5.508.000 đồng. Tổng cộng là 116.766.753,2 đồng (Một trăm mười sáu triệu, bảy trăm sáu mươi sáu nghìn, bảy trăm năm mươi ba phẩy hai đồng).

Ông Trần Hữu T1 được quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí:

- Nguyên đơn ông Nguyễn Tấn T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào 2.965.000 đồng (Hai triệu, chín trăm sáu mươi lăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0009758 ngày 18/6/2020 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc. Ông Nguyễn Tấn T được nhận lại số tiền 2.665.000 đồng (Hai triệu, sáu trăm sáu mươi lăm nghìn đồng).

- Nguyên đơn ông Trần Hữu T1 phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào 2.965.000 đồng (Hai triệu, chín trăm sáu mươi lăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0015912 ngày 18/8/2020 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc. Ông Trần Hữu T1 được nhận lại số tiền 2.665.000 đồng (Hai triệu, sáu trăm sáu mươi lăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

383
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2021/DS-ST ngày 29/01/2021 về tranh chấp hợp đồng giao khoán

Số hiệu:19/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về