Bản án 19/2020/DS-ST ngày 08/04/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG HỒ, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 19/2020/DS-ST NGÀY 08/04/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 08/4/2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 275/2019/TLST-DS, ngày 25/12/2019 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2020/QĐXXST-DS, ngày 05/3/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Lê Thanh T, sinh năm 1979 (xin vắng mặt)

Địa chỉ: Số 225A/18, ấp PL A, xã PQ, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.

2. Bị đơn:

2.1. Anh Nguyễn Trí D, sinh năm 1973 (vắng mặt)

2.2. Chị Phan Thị Diễm T, sinh năm 1974 (vắng mặt)

Địa chỉ: Số 13A/1, ấp TH, xã HP, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 18/12/2019 và các lời khai tiếp theo của nguyên đơn anh Lê Thanh T trong quá trình giải quyết vụ án trình bày: Anh Lê Thanh T và anh Nguyễn Trí D quen biết nhau qua việc anh Dũng là thầu xây dựng thường xuyên đến cửa hàng mua bán vật liệu xây dựng và trang trí nội thất do anh T làm chủ cửa hàng để mua vật liệu xây dựng.

Trong khoảng thời gian từ ngày 07/3/2019 cho đến ngày 26/4/2019, anh D có mua vật liệu xây dựng tại cửa hàng Thuận Phát do anh T làm chủ và hai bên chốt số tiền vật tư theo hóa đơn lưu lại tại cửa hàng vào ngày 26/4/2019 như sau:

+ Gạch men kích thước (30cm x 30cm): 7m2 x 120.000đ = 840.000đ;

+ Gạch men kích thước (25cm x 40cm): 5,5m2 x 92.000đ = 506.000đ;

+ Gạch men kích thước (25cm x 40cm): 16,5m2 x 92.000đ = 1.518.000đ;

+ La phong nhựa: 155m x 125.000đ = 19.375.000đ;

+ Sơn tường (mã số 605): 03 thùng x 1.590.000đ = 4.770.000đ;

+ Keo chà ron: 10 bịt x 20.000đ = 200.000đ;

+ Sơn ngoài (mã số 304) 01 thùng: 1.220.000đ;

+ Keo chà ron: 05 bịt x 20.000đ = 100.000đ;

+ Cây lăn: 15.000đ;

+ Sơn ngoài (mã số 304) 01 lon: 345.000đ;

+ Lavabo, phụ kiện: 350.000đ; Tổng cộng: 29.239.000đ.

Tại hóa đơn này còn cộng thêm phần nợ cũ là 4.000.000đ (bốn triệu đồng) của các lần mua trước đó. Sau khi chốt hóa đơn, do D không thực hiện trả nợ nên anh T có khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu giải quyết, khi đó D xin trả dần và đồng thời có trả xong phần nợ cũ là 4.000.000đ. Nhận thấy, anh D và chị Phan Thị Diễm T (là vợ anh D) đều có thiện chí trả nợ nên anh đã rút đơn khởi kiện. Tuy nhiên, sau khi rút đơn khởi kiện cho đến nay thì thì anh D không thực hiện theo cam kết trả dần.

Vì vậy, anh T yêu cầu vợ chồng Nguyễn Trí D, Phan Thị Diễm T có trách nhiệm liên đới trả cho anh số tiền mua vật liệu xây dựng còn thiếu tổng cộng 29.239.000đ (hai mươi chín triệu, hai trăm ba mươi chín nghìn đồng) và không yêu cầu tính lãi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục:

Nguyên đơn Lê Thanh T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt đối với anh và bị đơn Nguyễn Trí D, Phan Thị Diễm T được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không vì sự kiện bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đối với các đương sự theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố Tụng dân sự.

Vnội dung:

[1] Xét hợp đồng mua bán tài sản là vật liệu xây dựng được giao kết giữa anh Lê Thanh T và anh Nguyễn Trí D được thực hiện trong khoảng thời gian từ ngày 07/3/2019 cho đến ngày 26/4/2019, theo đó anh D có cung cấp cho Tòa án hóa đơn mua vật liệu xây dựng tại cửa hàng Thuận Phát do anh T làm chủ lưu lại đề ngày 26/4/2019 có chữ ký và ghi họ tên khách hàng là Nguyễn Trí D.

Tại hóa đơn thể hiện số lượng, chủng loại và đơn giá như sau:

+ Gạch men kích thước (30cm x 30cm): 7m2 x 120.000đ = 840.000đ;

+ Gạch men kích thước (25cm x 40cm): 5,5m2 x 92.000đ = 506.000đ;

+ Gạch men kích thước (25cm x 40cm): 16,5m2 x 92.000đ = 1.518.000đ;

+ La phong nhựa: 155m x 125.000đ = 19.375.000đ;

+ Sơn tường (mã số 605): 03 thùng x 1.590.000đ = 4.770.000đ;

+ Keo chà ron: 10 bịt x 20.000đ = 200.000đ;

+ Sơn ngoài (mã số 304) 01 thùng: 1.220.000đ;

+ Keo chà ron: 05 bịt x 20.000đ = 100.000đ;

+ Cây lăn: 15.000đ;

+ Sơn ngoài (mã số 304) 01 lon: 345.000đ;

+ Lavabo, phụ kiện: 350.000đ;

Tổng cộng số tiền là 29.239.000đ (hai mươi chín triệu, hai trăm ba mươi chín nghìn đồng).

Trước khi Tòa án thụ lý vụ án, anh T đã gửi đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo cho anh D, chị T qua đường bưu điện cũng như trong quá trình giải quyết vụ án cho đến tại phiên tòa hôm nay. Xét thấy, anh D và chị T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nên cũng đã biết được nội dung yêu cầu khởi kiện của anh T nhưng anh D và chị T vẫn chưa có văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của anh T. Mặt khác, anh T và chị T chưa giao nộp tài liệu, chứng cứ nào để chứng minh phản bác yêu cầu khởi kiện của anh Tú.

Do đó, căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do anh T cung cấp để làm cơ sở pháp lý cho việc giải quyết vụ án. Vì vậy, xét yêu cầu của anh T yêu cầu vợ chồng anh D, chị T có trách nhiệm liên đới trả cho anh T số tiền mua vật liệu xây dựng còn thiếu tổng cộng 29.239.000đ (hai mươi chín triệu, hai trăm ba mươi chín nghìn đồng) và không yêu cầu tính lãi là phù hợp với quy định tại các Điều 430, 440 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 27 của Luật hôn nhân và gia đình.

Từ những nhận định, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh T là buộc anh D và chị T có trách nhiệm liên đới trả cho anh T số tiền mua vật liệu xây dựng còn thiếu tổng cộng 29.239.000đ (hai mươi chín triệu, hai trăm ba mươi chín nghìn đồng).

[2] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 430, 440 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Căn cứ vào Điều 27 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lê Thanh T.

Buộc bị đơn anh Nguyễn Trí D và chị Phan Thị Diễm T có trách nhiệm liên đới trả cho anh T số tiền mua vật liệu xây dựng còn thiếu tổng cộng 29.239.000đ (hai mươi chín triệu, hai trăm ba mươi chín nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa hoàn trả đủ số tiền trên thì còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

[2] Về án phí:

2.1. Buộc bị đơn Nguyễn Trí D và Phan Thị Diễm T phải nộp 1.461.000đ (một triệu, bốn trăm sáu mươi mốt nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

2.2. Hoàn trả cho nguyên đơn Lê Thanh T số tiền 730.000đ (bảy trăm ba mươi nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0005458 ngày 25/12/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.

[3] Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2020/DS-ST ngày 08/04/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:19/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 08/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về