Bản án 19/2019/HS-ST ngày 29/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 19/2019/HS-ST NGÀY 29/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 29 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Giàng A L, sinh năm 1981, tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản P, xã T, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: Không; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Giàng A P (đã chết) và bà Sùng Thị P (đã chết); bị cáo có vợ là Cứ Thị X, sinh năm 1986; có hai con, con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam ngày 04/12/2018 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 11 giờ ngày 04/12/2018, tổ công tác Công an huyện M làm nhiệm vụ tại khu vực tiểu khu Pa Khen 1, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La, qua kiểm tra hành chính về ma túy với Giàng A L đã phát hiện Giàng A L đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ 01 gói nilon màu trắng, bên trong đựng chất bột màu trắng, Giàng A L khai là Heroine cất giữ nhằm mục đích để sử dụng;

Tổ công tác đã lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng dẫn giải Giàng A L về Công an huyện M để điều tra làm rõ.

Ngày 04/12/2018 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M phối hợp với VKSND huyện M và Phòng kỹ Thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng số ma túy của Giàng A L, kết quả: gói chất bột màu trắng thu giữ Giàng A L có khối lượng 0,16 gam, lấy 0,07 gam làm mẫu giám định ký hiệu “L”. Cơ quan Công an huyện M ra quyết định trưng cầu giám định chất ma túy và loại ma túy.

Tại kết luận giám định số: 40 ngày 07/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu L là ma túy, loại chất Heroine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,07 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 0,16 gam; loại Heroine.

Quá trình điều tra Giàng A L khai nhận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 04/12/2018, Giàng A L đi nhờ xe máy một người đàn ông dân tộc không quen biết đến tiểu khu Pa Khen 1, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La mục đích để tìm mua Heroine. Khi L đang đi bộ một mình trên đường dân sinh của tiểu khu Pa Khen 1, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La thì gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết. L hỏi và mua được của người phụ nữ đó 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu trắng với giá 100.000đ. Sau đó L cầm gói Heroine trong lòng bàn tay phải và đi bộ về nhà. Khi L đi được khoảng 01 km thì gặp Tổ công tác Công an huyện M phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Về nguồn gốc ma túy Giàng A L khai mua của một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết với số tiền 100.000 đồng. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Đi với người đàn ông dân tộc Mông điều khiển xe máy chở L đến tiểu khu Pa Khen 1, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La quá trình điều tra Giàng A L khai nhận không quen biết người đàn ông nêu trên, không biết được lai lịch, địa chỉ của người này. Do đó cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M không có căn cứ để điều tra xác minh nên không đề cập đến việc xử lý.

Bản cáo trạng số: 15/CT-VKSMC ngày 16 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo Giàng A L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M giữ nguyên quan điểm truy tố Giàng A L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố Giàng A L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Giàng A L từ 18 tháng đến 21 tháng tù;

Không áp dụng hình phạt phạt bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,09 gam Heroine cùng với vỏ gói niêm phong ban đầu.

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Ti phiên toà bị cáo Giàng A L thừa nhận: Hồi 11 giờ ngày 04/12/2018 Giàng A L đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,16 gam, với mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Kết luận giám định.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo Giàng A L đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do vậy cần xem xét cân nhắc xử phạt bị cáo mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo. Việc cách ly bị cáo một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có thể đảm bảo được điều kiện và thời gian để bị cáo cải tạo, giáo dục trở thành người tốt có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời nhằm răn đe phòng ngừa giáo dục chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và xét hỏi tại phiên tòa thấy rằng bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, sống phụ thuộc vào gia đình, không có tài sản gì có giá trị nên không phạt bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo theo quy định của khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[4]. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Đi với 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,09 gam Heroine cùng với vỏ gói niêm phong ban đầu, là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Đối với người phụ nữ dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo như bị cáo khai. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này do đó không có căn cứ để điều tra xử lý.

Đi với người đàn ông dân tộc Mông điều khiển xe máy chở L đến tiểu khu Pa Khen 1, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La quá trình điều tra Giàng A L khai nhận không quen biết của người đàn ông nêu trên, không biết được lai lịch, địa chỉ của người này. Do đó cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M không có căn cứ để điều tra xác minh nên không đề cập đến việc xử lý.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Pháp luật.

[7] Thời hạn tạm giam của bị cáo còn dưới 45 ngày nên cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Giàng A L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Giàng A L 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 04/12/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Giàng A L, bắt ngày 04/12/2018: Bên trong đựng 0,09 gam Heroine cùng với vỏ gói niêm phong ban đầu.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Khon 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Giàng A L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 29/01/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2019/HS-ST ngày 29/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:19/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về