Bản án 19/2019/HNGĐ-ST ngày 28/02/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 19/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên,  thành  phố  Hải  Phòng  xét  xử  sơ  thẩm  công  khai  vụ  án  thụ  lý  số 763/2018/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2018 về việc ly hôn, tranh chấp vềnuôi con theo Quyết định  đưa vụ án ra xét xử số 04/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2019/QĐST-HNGĐngày 31 tháng 01 năm 2019,  giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Vũ Văn H ; địa chỉ: Tổ dân phố Q, thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị  đơn: Chị Đỗ Thị T ; đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố Q   , thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng; địa chỉ hiện nay: Xóm Đ , xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 10 tháng 10 năm 2018 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là anh Vũ Văn H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Vũ Văn H  và chị Đỗ Thị T  kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng (Giấy chứng nhận kết hôn số 89 ngày 08 tháng 7 năm 2003). Sau khi cưới, vợ chồng về sinh sống cùng với gia đình anh H  tại thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống hòa thuận đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống. Anh H  xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫnvợ chồng đã trầm trọng, hôn  nhân không có hạnh phúc nên anh H  đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn chị T .

- Về con chung: Anh H  và chị T  có hai con chung là Vũ Thị Vân A , sinh ngày 07 tháng 10 năm 2000 và Vũ Văn Đ , sinh ngày 10 tháng 01 năm 2006. Hiện nay con Vũ Thị Vân A  đã trưởng thành và có khả năng lao động, anh H  không yêu cầu Tòa án giải quyết.  Khi ly hôn anh H  có nguyện vọng  được trực tiếp nuôi con chung là Vũ Văn Đ   nhưng chị T  cũng đề nghị được nuôi con, anh H  đồng ý để chị T  nuôi con. Về cấp dưỡng nuôi con chung để hai bên tự thỏa thuận giao nhận với nhau, anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Anh H  trình bầy không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại văn bản ghi ý kiến ngày 02 tháng 11 năm 2018, bị đơn là chị Đỗ Thị T trình bày: Chị T  công nhận lời trình bày của anh H  về điều kiện, thời gian và nơi đăng ký kết hôn là đúng. Chị T  trình bầy vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chị T  đi làm ăn xa nhà dẫn đến vợ chồng nghi ngờ, ghen tuông. Vợ chồng sống mỗi người một nơi từ năm 2016 cho đến nay. Anh H  có đơn xin ly hôn, chị T  không đồng ý ly hôn. Tại phiên tòa, chị T  đồng ý ly hôn với anh H . Về con chung: Chị T  đề nghị được nuôi con chung Vũ Văn Đ . Việc cấp dưỡng nuôi con chung chị và anh H  tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Tại phiên tòa chị T  trình bầy vợ chồng có tài sản chung là 01 cái đầm nuôi trồng thủy sản ở M, đứng tên bố chồng. Chị T  yêu cầu được chia đôi; nếu anh H  đồng ý chia đôi đầm thì chị sẽ ký ly hôn ngay tại phiên tòa.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng pháp luật. Tòa án đã xác định đúng thẩm quyền giải quyền vụ án, xác định đúng quan hệ pháp luật và những người tham gia tố tụng. Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; chấp nhận yêu cầu về ly hôn của nguyên đơn. Giao con chung Vũ Văn Đ  cho bị đơn trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản: Không đề giải quyết cầu chia tài sản của bị đơn trong vụ án này. Chị T  có thể viết đơn yêu cầu khởi kiện thành vụ án khác. Nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Anh Vũ Văn H  và chị Đỗ Thị T  đều thống nhất về điều kiện kết hôn, thời gian kết hôn và có hai con chung như đã trình bày và phù hợp với bản sao giấy đăng ký kết hôn, bản sao giấy khai sinh của con chung mà anh Hòa đã giao nộp cho Tòa án, phù hợp với tài liệu xác minh tại Ủy ban nhân dân thị trấn M. Tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện vợ chồng anh H  và chị T  có mâu thuẫn và đã sống mỗi người một nơi từ khoảng năm 2016 cho đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng khó có khả năng đoàn tụ. Anh H  và chị T  đều có đủ điều kiện nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1]. Về tố tụng: Bị đơn là chị Đỗ Thị T có nơi cư trú tại huyện T , thành phố Hải Phòng. Căn cứ Điều 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên có thẩm quyền xét xử vụ án này.

 [2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh H  và chị T  đã được xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 89 ngày 08 tháng 7 năm 2003 tại Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng). Căn cứ vào lời khai của các đương sự, tài liệu điều tra xác minh đã xác định được mâu thuẫn vợ chồng có tồn tại làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ vào Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình xử cho anh H được ly hôn chị T

 [3]. Về con chung: Anh H  và chị T  có hai con chung tên là Vũ Thị Vân A , sinh ngày 07 tháng 10 năm 2000 và Vũ Văn Đ , sinh ngày 10 tháng 01 năm 2006. Hiện nay con Vũ Thị Vân A đã trưởng thành và có khả năng lao động, anh H  và chị T   không yêu cầu Tòa án giải quyết.   Khi ly hôn anh H   và chị T   đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung là Vũ Văn Đ . Tại phiên tòa anh H đồng ý để chị T  trực tiếp nuôi con chung. Vì vậy, giao cho chị T  trực tiếp nuôi con Vũ Văn Đ  là phù hợp với các Điều  81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

 [4]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh H  và chị T  không đề nghị Tòa án giải quyết.

 [5]. Về yêu cầu chia tài sản chung: Anh H  trình bầy vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại lời khai tại Tòa án, chị T   trình bầy vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án đã tiến hành mở phiên hòa giải và đã nhiều lần mở phiên tòa, đã giải thích quyền và nghĩa vụ cho đương sự, chị T vẫn không có yêu cầu chia tài sản chung. Nhưng tại phiên tòa này, chị T  trình bầy vợ chồng có tài sản chung và yêu cầu chia nhưng chưa đưa ra được chứng cứ và hòa giải. Yêu cầu này chỉ được chấp nhận trước khi mở phiên họp công khai chứng cứ; trước khi mở phiên tòa, các đương sự chưa có đơn yêu cầu, chưa làm thủ tục theo quy định pháp luật. Để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự thì Tòa án không đề cập giải quyết yêu cầu chia tài sản chung của chị T  trong vụ án này. Chị T  có thể viết đơn yêu cầu khởi kiện thành vụ án khác.

 [6]. Về án phí: Anh H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;  Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14  ngày  30/12/2016  của  Ủy  ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về hôn nhân: Anh Vũ Văn H được ly hôn chị Đỗ Thị T .

2. Về con chung: Giao cho chị Đỗ Thị T  trực tiếp nuôi con chung là Vũ Văn Đ , sinh ngày 10 tháng 01 năm 2006 cho đến khi con đủ mười tám tuổi và có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Vũ Văn H  phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000013 ngày 12 tháng 10 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Anh Vũ Văn H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2019/HNGĐ-ST ngày 28/02/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:19/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về