Bản án 19/2019/HNGĐ-ST ngày 12/06/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 19/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 12 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 185/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, về nuôi con, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 252/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thu T; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 109/173 H.K, phường H.K, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; tạm trú tại: Số 1C - Đ38 Đ.Q.B, quận N.Q, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Lê Minh P; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 109/173 H.K, phường H.K, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; hiện đang chấp hành án tại: Đội 30, Phân trại số 3, Trại giam X.N, huyện T.N, thành phố Hải phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn đề ngày 04/4/2019 cùng lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn - Chị Nguyễn Thị Thu T trình bày: chị kết hôn với anh Lê Minh P từ năm 2011, do hai bên tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H.K, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng ngày 21/11/2011. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận được một thời gian ngắn, sau đó phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân theo chị T trình bày là do bất đồng quan điểm, tính cách không phù hợp, anh P thường xuyên bỏ nhà đi chơi đến khuya mới về, sống thiếu trách nhiệm với gia đình, không làm tròn trách nhiệm của môt người chồng, người cha, dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng lớn, mặc dù đã được gia đình, bạn bè khuyên giải nhiều song không có kết quả. Do mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, chị T đã về nhà bố mẹ đẻ (tại địa chỉ: Số 1C- Đ38 Đ.Q.B, quận N.Q, thành phố Hải Phòng) ở từ năm 2014 đến nay, vợ chồng sống ly thân nhau, không ai quan tâm đến ai về tình cảm cũng như về kinh tế. Trong khoảng thời gian vợ chồng sống ly thân, năm 2018 anh P bị kết án 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” hiện đang phải chấp hành tại Trại giam X.N, huyện T.N, H.P. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng và không còn khả năng đoàn tụ nên chị T đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lê Minh P.

Về nuôi con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Lê Phương N, sinh ngày 29/4/2012. Ly hôn chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con (do anh Phương đang chấp hành án tại tại Trại giam X.N nên không có điều kiện để chăm sóc nuôi dạy con chung).

Về chia tài sản: Chị T không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa anh Lê Minh P vắng mặt. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của anh P tại Trại giam X.N, huyện T.N, H.P, anh P trình bày: Anh xác nhận mâu thuẫn vợ chồng giữa anh và chị T đã trầm trọng và không có khả năng đoàn tụ. Nay chị T có đơn đề nghị Tòa án nhân dân quận Lê Chân giải quyết ly hôn, anh P nhất trí ly hôn và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Anh P xác nhận vợ chồng có 01 con chung là Lê Phương N, sinh ngày 29/4/201A. Ly hôn anh P có nguyện vọng được nuôi con chung vì không muốn cháu N là con gái ở với bố dượng nếu chị T đi bước nữa.

Về chia tài sản: Anh P trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với anh Lê Minh P cũng như những quan điểm về con chung và tài sản chung đã trình bày ở trên.

Kiểm sát viên tham gia phát biểu ý kiến tại phiên tòa:

- Về tố tụng: Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định về trình tự thủ tục tố tụng tại phiên tòa; nguyên đơn; bị đơn chấp hành đúng các quy định về Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật HNGĐ năm 2014; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho Chị Nguyễn Thị Thu T được ly hôn anh Lê Minh P; về con chung: Giao con chung Lê Phương N, sinh ngày 29/4/201A cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tiền cấp dưỡng nuôi con chung chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết, không xem xét; về chia tài sản: Hai bên không yêu cầu tòa án giải quyết, nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Về tố tụng: Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và đơn xin xác nhận tạm trú thể hiện anh Lê Minh P có đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 109/173 H.K, phường H.K, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; hiện đang chấp hành án tại: Đội 30, Phân trại số 3, Trại giam X.N, huyện T.N, H.P. Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự, vụ án khởi kiện xin ly hôn giữa Chị Nguyễn Thị Thu T và anh Lê Minh P thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

[2] Tại phiên tòa, bị đơn là anh Lê Minh P vắng mặt, song anh P có đơn xin xét xử vắng mặt, đơn xin xét xử vắng mặt của anh P là hợp lệ. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Lê Minh P.

[3] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 199B và anh Lê Minh P, sinh năm 198C kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T.N.H, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng ngày 21/11/2011. Quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh P là hợp pháp.

[4] Quá trình vợ chồng chung sống cho đến nay cả hai bên đều xác nhận tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, không còn khả năng đoàn tụ và cùng đề nghị Tòa án giải quyết cho hai người được ly hôn. Qua điều tra xác minh cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh P kéo dài nhiều năm nay, hai bên sống ly thân nhau, không ai quan tâm đến ai về tình cảm cũng như kinh tế. Hiện anh P đang phải chấp hành án (07 năm tù) tại Trại giam X.N, H.P. Như vậy quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh P trên thực tế không còn tồn tại, mục đích của hôn nhân không đạt được, bởi vậy yêu cầu của chị T được xin được ly hôn với anh P là hoàn toàn chính đáng, phù hợp với thực tế, phù hợp với qui định tại các điều 51 và 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về con chung: Chị T và anh P xác nhận vợ có 01 con chung là Lê Phương N, sinh ngày 29/4/201A. Trong trường hợp vợ chồng ly hôn, chị T và anh P cùng có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung cho đến khi trưởng thành và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung của cả hai bên (chị T và anh P) hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên hiện cháu Lê Phương N còn nhỏ (sinh ngày 29/4/201A), cần sự chăm sóc của người mẹ và hiện tại cháu đang sống cùng mẹ (chị T) do chị T chăm sóc nuôi dưỡng từ nhỏ đến nay. Anh P hiện đang phải chấp hành án (07 năm tù) tại Trại giam X.N, không có điều kiện chăm sóc, nuôi dạy con chung, bởi vậy yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung của chị T là phù hợp với thực tế và phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về chia tài sản: Chị T và anh P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét việc phân chia tài sản chung giữa hai bên.

[7] Về án phí: Chị T phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; khoản 1 Điều 228; khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh chị Nguyễn Thị Thu T và anh Lê Minh P.

- Về nuôi con chung: Giao con chung là Lê Phương N, sinh ngày 29/4/201A cho chị Nguyễn Thị Thu T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con tạm thời không đặt ra.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thu T phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng)

án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được tình trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng theo biên lai thu tiền số 0013134 ngày 19 tháng 4 năm 2019. Chị T đã nộp đủ tiền án phí.

- Về quyền kháng cáo: Chị T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh P có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2019/HNGĐ-ST ngày 12/06/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:19/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về