Bản án 19/2019/HNGĐ-ST ngày 11/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 19/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/06/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 11 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 11/2019/TLST - HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2019 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 277/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 316/2019/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Ngô Thị Thanh M; nơi ĐKHKTT: Số 21/280 đường L, phường L, quận N, Hải Phòng; nơi tạm trú: Số 34 đường H, phường Đ, quận H, thành phố Hà Nội; có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Bá T; nơi cư trú: Số 21/280 đường L, phường L, quận N, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 07 tháng 01 năm 2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Ngô Thị Thanh M trình bày:

Chị Ngô Thị Thanh M và anh Nguyễn Bá T lấy nhau trên cơ sở tự nguyện có tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Lê Lợi, quận Ngô Quyền, Hải Phòng ngày 14/3/2008. Đến nay vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Thị Ngọc Hà, sinh ngày 20/5/2009.

Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng nguyên nhân chủ yếu là bất đồng quan điểm sống, tính tình không phù hợp và anh T mắc nghiện ma túy, sống không có trách nhiệm gia đình vợ con. Bản thân chị M đã nhiều lần động viên và đưa anh T cai nghiện ma túy nhưng anh T đều không cai được. Chính vì nguyên nhân như vậy nên chị M và anh T sống với nhau không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra căng thẳng cãi vã nhau. Mâu thuẫn của vợ chồng tôi đã được hai bên gia đình và bạn bè khuyên giải nhiều lần nhưng không giảm. Từ năm 2014 chị M và con đã bỏ đi sống chỗ khác và vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị M xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, vợ chồng sống ly thân hơn 05 năm nay không còn khả năng đoàn tụ, chị M đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Bá T.

Về con chung: Chị M và anh T có 01 con chung là Nguyễn Thị Ngọc Hà, sinh ngày 20/5/2009. Ly hôn, chị M xin nhận nuôi dưỡng con chung đến khi thành niên và không yêu cầu anh T đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị M và anh T không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ anh Nguyễn Bá T đến trụ sở Tòa án để viết bản tự khai, tiến hành kiểm tra giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh T đều vắng mặt không có lý do.

Tiến hành xác minh thu thập chứng cứ tại địa phương và gia đình, kết quả đã thu thập được như sau: Sau khi kết hôn vợ chồng anh T chị M chung sống với gia đình anh T tại địa chỉ số 21/280 đường Lê Lợi, phường Lê Lợi, quận Ngô Quyền, Hải Phòng. Quá trình chung sống anh T chị M có 01 con chung là Nguyễn Thị Ngọc Hà, sinh ngày 20/5/2009. Từ năm 2014 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân chủ yếu là do anh T mắc nghiện ma túy và sống không có trách nhiệm với gia đình. Và từ năm 2014, chị M và con chuyển đi sống chỗ khác, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị M có đơn xin ly hôn anh T thì đề nghị Tòa án căn cứ vào tình trạng hôn nhân thực tế để giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung và tài sản chung: Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay: Chị M giữ nguyên quan điểm như trên và đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T vì mâu thuẫn đã trầm trọng, vợ chồng sống ly thân mỗi người một nơi đã 05 năm nay, không còn khả năng đoàn tụ. Về con chung: Chị M xin nhận nuôi dưỡng con chung cháu Nguyễn Thị Ngọc Hà, sinh ngày 20/5/2009 đến khi thành niên và không yêu cầu anh T đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Chị M và anh T không có, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Nguyễn Bá T vắng mặt phiên tòa lần thứ hai, không có lý do.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu: Qua nghiên cứu hồ sơ thấy rằng việc thụ lý vụ án cũng như quá trình xây dựng lập hồ sơ và tại phiên tòa Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các trình tự quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, các đương sự: Phía nguyên đơn đã tuân thủ và thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, phía bị đơn không chấp hành đúng với các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử xử cho chị M được ly hôn với anh T và giao con chung cho chị M nuôi dưỡng đến khi thành niên. Về án phí: Chị M phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Tòa án nhận định:

- Về quan hệ hôn nhân:

[1] Chị Ngô Thị Thanh M và anh Nguyễn Bá T lấy nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Lê Lợi, quận Ngô Quyền, Hải Phòng ngày 14/3/2008 nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

[2] Quá trình chung sống, đến năm 2014 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do bất đồng quan điểm sống và anh T mắc nghiện ma túy. Chị M và anh T đã sống ly thân hơn 05 năm nay, không còn quan tâm trách nhiệm đến nhau về mọi mặt.

[3] Xét cuộc sống chung của chị M và anh T mâu thuẫn trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần giải quyết cho chị M được ly hôn với anh T là phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật. Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị M đối với anh T.

- Về việc nuôi con:

[4] Chị Ngô Thị Thanh M và anh Nguyễn Bá T có 01 con chung là Nguyễn Thị Ngọc Hà, sinh ngày 20/5/2009. Ly hôn, chị M xin nhận nuôi cháu Hà đến khi thành niên. Xét từ khi vợ chồng sống ly thân mỗi người một nơi đến nay cháu Hà ở với mẹ và được chị M chăm sóc chu đáo. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Hà cho chị M nuôi dưỡng đến khi cháu Hà đủ 18 tuổi. Chị M không yêu cầu anh T đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về việc chia tài sản:

[5] Chị M không yêu cầu Toà giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về án phí:

[6] Chị M phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Ngô Thị Thanh M được ly hôn với anh Nguyễn Bá T.

2. Về việc nuôi con: Giao con chung Nguyễn Thị Ngọc Hà, sinh ngày 20/5/2009 cho chị M trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị M không yêu cầu anh T đóng góp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Ngô Thị Thanh M phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015574 ngày 08/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Chị Ngô Thị Thanh M đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn chị Ngô Thị Thanh M có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị đơn anh Nguyễn Bá T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

343
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2019/HNGĐ-ST ngày 11/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:19/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về