Bản án 19/2018/HS-ST ngày 29/08/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 19/2018/HS-ST NGÀY 29/08/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 29 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu G iang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 14/2018/TLST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2018/QĐXXST- HS ngày 17 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Lê Phước H - sinh năm 1995, tại huyện Châu Th, tỉnh Hậu Giang. Nơi cư trú: Ấp Thạnh A, xã Tân Phú T, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Ngọc H (chết) và bà Nguyễn Thị C; chưa có vợ, con; tiền sự: có 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số 13/2017/QĐ-TA ngày 12/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Long H, tỉnh Vĩnh Long, tiền án: có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản tại bản án số 30/2016/HSST ngày 15/8/2016 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang tuyên phạt bị cáo Lê Phước Hưng 09 tháng tù, chấp hành xong án phạt tù ngày 20/3/2017, về nhân thân: ngày 21/11/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A tuyên phạt 01 năm 01 tháng tù về tội chống người thi hành công vụ theo bản án số 53/2012/HSST chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/6/2013; đã xóa án tích bị cáo bị bắt tạm giam ngày 03/5/2018 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

Ông Nguyễn Thanh V – sinh năm 1985 (vắng mặt).

Bà Phạm Ngọc N – sinh năm 1987 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Phú T, xã Tân Phú T, huyện Châu A, tỉnh Hậu Giang.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Phan Kim T – sinh năm 1987 (vắng mặt).

Địa chỉ: Khu dân cư Thiên L, ấp Phú T, xã Tân Phú T, huyện Châu A, tỉnh Hậu Giang.

- Người làm chứng:

Bà Phan Kim T – sinh năm 1981 (vắng mặt).

Địa chỉ: Khu dân cư Thiên L, ấp Phú T, xã Tân Phú T, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.

Bùi Văn Đ– sinh năm 1959 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Phú T, xã Tân Phú T, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và d iễn b iến tại phiên tòa, nộ i dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 16/12/2017, Lê Phước H cùng một nam thanh niên tên T (không rõ lai lịch) đi trên cùng một xe mô tô của T điều khiển từ hướng thị trấn Cái T về thành phố Cần T để tìm tài sản trộm cắp. Khi cả hai đi đến đoạn thuộc ấp Phú T, xã Tân Phú T, huyện Châu T, tỉnh Hậu G, H phát hiện cở sở bán hải sản của anh Nguyễn Thanh Vũ, sinh năm: 1985, ĐKTT: ấp Thành V, xã Tân T, huyện Đầm D, tỉnh Cà M, không có người trông coi, nên H kêu Tài dừng xe gần đó canh đường, còn Hưng lén lút vào nhà lấy trộm một máy laptop nhãn hiệu Dell, màu đen để trên bàn phía bên phải nhìn từ ngoài vào. Lúc này, chị Phạm Ngọc N, sinh năm: 1987 (là vợ anh V) đang ở phía sau nhà phát hiện và tri hô thì H ôm tài sản chạy đến chỗ T chờ sẵn rồi tẩu thoát. Sau khi lấy được tài sản, H và T đến cửa hàng chuyên mua bán điện thoại di động và laptop Cô T của bà Mai Thị Mỹ T ở số nhà 228/1B đường Trần Hưng Đ, phường An N, quận Ninh K, thành phố Cần T, bán máy laptop được 1.300.000 đồng (Một triệu ba trăm ngàn đồng). H và T chia đôi số tiền bán được tiêu xài cá nhân.

Ngoài ra, vào khoảng 18 giờ 20 phút ngày 08/01/2018, Lê Phước H cùng đối tượng tên T (không rõ lai lịch) lén lút vào nhà chị Phan Kim T, sinh năm 1987, tọa lạc tại Khu dân cư Thiên L thuộc ấp Phú T, xã Tân Phú T, huyện Châu T, tỉnh Hậu Giang lấy trộm 01 (Một) chai rượu nhãn hiệu Remy Martin XO loại 750ml, rồi tẩu thoát để lại đôi dép nhựa màu trắng đen. Sau khi lấy được tài sản, H và Th đi về hướng thành phố Cần T bán chai rượu cho một người đàn ông lạ mặt trên đường đi với giá 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng), cả hai chia nhau tiêu xài cá nhân.

- Tại Bản kết luận định giá số: 05/KL.ĐG ngày 23/02/2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành A kết luận: Một Laptop nhãn hiệu Dell, màu đen có giá trị là 1.600.000 đồng (Một triệu sáu trăm ngàn đồng).

- Tại Bản kết luận đ ịnh giá số: 06/KL.ĐG ngày 23/02/2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành A kết luận: Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt trong vụ Trộm cắp tài sản xảy ra vào ngày 08/01/2018 tại ấp Phú T, xã Tân Phú T, huyện Châu T, tỉnh Hậu Giang, là không có cơ sở để xác định giá trị tài sản.

- Vật chứng thu giữ trong vụ án: 01 (Một) đôi dép nhựa, màu trắng đen.

Quá trình điều tra, chị Phan Kim T và bị hại anh Nguyễn Thanh Vũ, chị Phạm Ngọc N không yêu cầu bị cáo H bồi thường thiệt hại về dân sự.

Đối với bà Mai Thị Mỹ T có hành vi tiêu thụ tài sản do bị người khác phạm tội mà có, nhưng khi tiêu thụ, bà Tiên không biết tài sản do bị cáo Hưng trộm cắp của người khác nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.

Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Châu Thành A chưa xác định được lai lịch của T và Th nên chưa xem xét xử lý trong vụ án. Hiện Cơ quan CSĐT đang tiếp tục xác minh làm rõ.

Tại cáo trạng số 16/CT-VKS-HCTA ngày 11/7/2018 đã quyết định truy tố bị cáo Lê Phước H về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 đ iểm g, p Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lê Phước Hưng về tội danh và điều luật như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Phước H phạm tội Trộm cắp tài sản. Đề nghị áp dụng: Khoản 1 Điều 138; đ iểm g, p Điều 46 Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi, bổ sung 2009; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc Hội đề nghị xử phạt bị cáo Lê Phước H từ 9 đến 12 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/5/2018.

Về trách nhiệm dân sự: bị hại không có yêu cầu không xem xét giải quyết.

Về xử lý vật chứng: 01 (Một) đôi dép nhựa, màu trắng đen không còn giá trị sử dụng và tại phiên tòa bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo trình bày ý kiến tranh luận: Về trách nhiệm hình sự: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng và pháp luật áp dụng: Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án cho thấy, việc điều tra, truy tố được thực hiện theo đúng trình tự tự, thủ tục quy đ ịnh của Bộ luật tố tụng hình sự 2003Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009. Đến thời điểm xét xử Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có hiệu lực pháp luật. Theo nguyên tắc áp dụng pháp luật và Căn cứ Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc Hội trong khi giải quyết vụ án tại thời điểm xét xử: Về tố tụng áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về nội dung áp dụng Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 về tội danh và điều khoản khác. Đối với những quy định về đ iều khoản có lợi cho người phạm tội áp dụng Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 để giải quyết vụ án. Tại phiên tòa, bị hại (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt) và người làm chứng vắng mặt nhưng xét thấy sự vắng mặt của những người này không trở ngại cho việc xét xử vụ án nên Hộ i đồng xét xử căn cứ Điều 292, Điều 293 xét xử vắng mặt bị hại, người làm chứng.

[2] Về nộ i dung giải quyết vụ án: Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Lê Phước H đều thừa nhận hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Đối chiếu lời thừa nhận của bị cáo với lời khai người bị hại và các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án là phù hợp nhau và chứng minh được: Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 16/12/2017, bị cáo Lê Phước H đã cùng với đối tượng T (không rõ lai lịch) đến cơ sở bán hải sản của anh Nguyễn Thanh V ở ấp Phú T, xã Tân Phú T, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang lén lút vào nhà lấy trộm 01 (Một) máy Laptop nhãn hiệu Dell, màu đen. Qua định giá xác định tài sản bị cáo H và T chiếm đoạt có giá trị là 1.600.000 đồng (Một triệu sáu trăm ngàn đồng). Mặc dù, tài sản mà bị cáo H chiếm đoạt chưa đủ định lượng nhưng bị cáo Hưng có 01 tiền án về hành vi trộm cắp tài sản chưa

được xóa án tích và tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản; tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 138 điểm g, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Ngoài ra, căn cứ Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc Hội và Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì hình phạt và tội danh là như nhau. Từ những tình tiết, chứng cứ như đã nêu trên cho thấy Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như đã nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hội đồng xét xử xét thấy, để thực hiện trót lọt hành vi phạm tội, bị cáo H đã lợi dụng lúc chủ sở hữu sơ hở và lúc không có ai bị cáo đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, hành vi bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo đã thành niên và nhận thức được hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, mặc dù bị cáo có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích, nhưng vẫn cố ý thực hiện và mong muốn cho hậu quả xảy ra thể hiện lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo trước đó đã phạm tội chống người thi hành công vụ chưa được xóa án tích nhưng tái phạm, do đó bị cáo phải gánh chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội bị cáo gây ra. Do đó, cần có hình phạt nghiêm minh tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân tốt, đồng thời nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa tội phạm chung. Tuy nhiên, khi áp dụng hình phạt cần xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng như: Quá trình đ iều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm g, p khoản 1 Đ iều 46 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Từ những nhận định nêu trên xét thấy mức án mà đại d iện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[4] Đối với bị cáo Lê Phước H bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo Quyết định số 13/2017/QĐ-TA ngày 12/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Long H, tỉnh Vĩnh L, còn hành vi của bị cáo là trộm cắp tài sản nên căn cứ Điều 117 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 miễn chấp hành thời gian còn lại trong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

[5] Đối với chai rượu hiệu Remy Maxtin XO loại 750ml, bị cáo trộm của bị hại Phan Kim T, bị hại cho rằng được khách hàng tặng nhưng không nhớ rõ thời gian nào, không xác định được người tặng cho là ai nên Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành A không xác định được giá trị tài sản nên không có cơ sở định giá để truy tố, xét thấy trong quá trình giải quyết bị hại cũng không có yêu cầu bồi thường, xử lý đối với bị cáo nên áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo, vì vậy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang không khởi tố, truy tố là có căn cứ.

[6] Đối với bà Mai Thị Mỹ T có hành vi tiêu thụ tài sản do bị người khác phạm tội mà có, nhưng khi tiêu thụ, bà T không biết tài sản do bị cáo H trộm cắp của người khác nên không truy cứu trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Châu Thành A chưa xác định được lai lịch của Tài và Thắng nên chưa xem xét xử lý trong vụ án. Kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Châu Thành A tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau [7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Lê Thanh V, Phan Kim T không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự; 01(Một) đôi dép nhựa, màu trắng đen không còn giá trị sử dụng và tại phiên tòa bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên tịch thu tiêu hủy.

[9] Về án phí: Bị cáo Lê Phước H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 138; điểm g, p khoản 1 Điều 46, Điều 106 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung 2009; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, Điều 329; Điều 331 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc Hội. Điều 117 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Phước H phạm tội Trộm cắp tài sản.

Xử phạt: Bị cáo Lê Phước H 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/5/2018.

Tiếp tục tạm giam b ị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án. 

Bị cáo được miễn chấp hành thời gian còn lại trong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Về trách nhiệm dân sự: bị hại không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết;

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) đôi dép nhựa, màu trắng đen.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; Buộc bị cáo Lê Phước H phải nộp 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2018/HS-ST ngày 29/08/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:19/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành A - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về