Bản án 19/2018/HS-ST ngày 16/05/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 19/2018/HS-ST NGÀY 16/05/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 16 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 18/2018/TLST-HS ngày 18 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2018/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thành C (tên gọi khác: Mơ Em), sinh ngày 27 tháng 12 năm 1993, tại Thành phố Hồ Chí Minh;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 7/8C, Tổ 7, Ấp X, xã N Đ, huyện Nhà Bè,Thành phố Hồ Chí  Minh;

Chỗ ở trước khi bị bắt: 4/18, Tổ 4, Ấp X, xã N Đ, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh;

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12;

Con ông Nguyễn Công T, sinh năm 1959 và bà Lương Thị Kim N, sinh năm 1963;

Vợ, con: Không. Tiền án: Không. Tiền sự: Không

Nhân thân: Ngày 25 tháng 6 năm 2013, Nguyễn Thành C bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh ra Quyết định về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, theo Quyết định số 1308/QĐ-UBND.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 19/12/2017, chuyển tạm giam ngày 25/12/2017. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 18 giờ 05 phút ngày 18 tháng 12 năm 2017, tại trước cửa chợ Nhơn Đức, tổ 11, ấp 4, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Nhà Bè phối hợp Công an xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè bắt quả tang Nguyễn Thành C đang bán trái phép chất ma túy cho Quách Ngọc Tuấn A, thu giữ trong túi quần bên trái của Tuấn A 01 miếng băng keo màu đen, bên trong có 01 gói nylon được hàn kín hai đầu có chứa tinh thể không màu. Tuấn A khai nhận vừa mua ma túy đá của C để sử dụng. Thu giữ dưới đất tại nơi C đứng số tiền 200.000 đồng. C khai nhận đó là số tiền Tuấn A mua ma túy đá của C nên đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và giải C và Tuấn A về trụ sở Công an xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè, sau đó chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhà Bè điều tra theo thẩm quyền.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhà Bè tiến hành khám xét khẩn cấp tại nơi ở của Nguyễn Thành C (số 4/18, Tổ 4, Ấp X, xã N Đ, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh) thu giữ tại phòng ngủ của Công: 11 gói nylon được hàn kín hai đầu, mỗi gói có kích thước (01 x 01)cm, bên trong có chứa tinh thể không màu; 01 gói nylon được hàn kín hai đầu, có kích thước (04 x 05)cm, bên trong có chứa tinh thể không màu; 01 chiếc cân tiểu ly hiệu Amput; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy và 01 cuộn băng keo màu xanh. C khai nhận là ma túy đá do C mua về chia nhỏ thành nhiều gói để bán cho những người nghiện khác và dụng cụ dùng để hoạt động mua bán trái phép chất ma túy.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thành C khai nhận những tinh thể không màu mà C an thu giữ là chất ma túy đá do C mua của một người tên T (không rõ lai lịch) tại Quận 4 về chia nhỏ để sử dụng và bán cho những người nghiện khác kiếm lời.

Mỗi lần C mua một gói ma túy đá với giá 2.000.000 đồng rồi chia ra thành nhiều gói nhỏ đem bán lại cho những người nghiện khác với giá 100.000  đồng đến 200.000 đồng/gói để kiếm lời. Khi có người nghiện cần mua ma túy đá, thì điện thoại vào số thuê bao 0901988479 của C để thỏa thuận số tiền, lượng ma túy đá cần mua, hẹn địa điểm C giao ma túy đá và nhận tiền. Quá trình mua bán ma túy đá, C đã bán ma túy đá cho Quách Ngọc Tuấn A 02 lần, mỗi lần 01 gói với giá 200.000 đồng và lần thứ 03 khi C đang bán 01 gói ma túy đá với giá 200.000 đồng cho Tuấn A tại trước cửa chợ Nhơn Đức, Tổ 11, Ấp 4, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè thì bị bắt quả tang. C đã bán ma túy đá cho Phan Minh T 02 lần, mỗi lần 01 gói ma túy đá với giá 200.000 đồng. C đã bán ma túy đá cho một số người nghiện khác không rõ nhân thân, lai lịch trên địa bàn xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè. Cứ bán hết một gói ma túy đá 2.000.000 đồng do C mua của T thì C thu lời 500.000 đồng và một phần ma túy đá để sử dụng. Từ khoảng tháng 8 năm 2017 đến ngày 18 tháng 12 năm 2017, C thu lời từ việc mua bán trái phép chất ma túy khoảng 7.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định số 149/KLGĐ-H ngày 29 tháng 12 năm 2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định: Tinh thể không màu trong một gói nylon (bên ngoài có quấn băng keo màu đen) được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Quách Ngọc Tuấn A và hình dấu Công an xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1473g, loại Methamphetamine.

Tại Bản kết luận giám định số 150/KLGĐ-H ngày 29 tháng 12 năm 2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định: Tinh thể không màu trong 12 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Thành C và hình dấu Công an xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 8,9034g, loại Methamphetamine.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Nguyễn Thành C do không rõ nhân thân, lai lịch. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhà Bè tiếp tục xác minh làm rõ khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

* Vật chứng của vụ án:

- Số tiền 200.000 đồng thu giữ trong lúc bắt quả tang Nguyễn Thành C đang bán trái phép chất ma túy cho Quách Ngọc Tuấn A. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh đã chuyển số tiền trên vào tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự tại kho bạc Nhà nước huyện Nhà Bè chờ xử lý (BL: 84-85).

- Mẫu vật còn lại sau khi đã sử dụng phục vụ giám định: Tinh thể không màu có khối lượng 8,7463g được niêm phong có chữ ký của giám định viên và cán bộ điều tra; 01 chiếc điện thoại di động, sau lưng máy có dòng chữ Iphone; 01 chiếc cân tiểu ly hiệu Amput; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy và 01 cuộn băng keo màu xanh. Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh đã chuyển những vật chứng trên đến kho tang vật của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh để chờ xét xử.

- 01 xe môtô biển số 70K1-222.87, do chị Lương Thị Kim H đứng tên chủ sở hữu. Sau đó, chị H đã cho cháu ruột của mình là chị Nguyễn Thị Mỹ P chiếc xe môtô trên để làm phương tiện đi lại nhưng không làm thủ tục sang tên đổi chủ. Vào ngày 18 tháng 12 năm 2017, C mượn chiếc xe môtô này nói là đi mua đồ nhưng đã sử dụng để đi bán ma túy đá cho Quách Ngọc Tuấn A. Việc C sử dụng chiếc xe môtô trên làm phương tiện đi bán ma túy đá, chị P hoàn toàn không biết, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhà Bè đã trả lại chiếc xe môtô cho chị Nguyễn Thị Mỹ P (BL: 106).

- Chiếc điện thoại di động màu đen, có số Imeil: 356233531757570, số Imeil 2: 356233531757588 (thu giữ của Quách Ngọc Tuấn A trong lúc bắt quả tang). Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhà Bè đã trả lại cho Quách Ngọc Tuấn A (BL: 107).

Tại Bản cáo trạng số 18/CT-VKS.HS ngày 17/4/2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè đã truy tố bị cáo Nguyễn Thành C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 của Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 :

+ Xử phạt Nguyễn Thành C từ 08 năm đến 09 năm tù. Buộc bị cáo nộp lại số tiền thu lợi bất chính 8.000.000 đ.

+ Hình phạt bổ sung : Buộc bị cáo nộp phạt số tiền 10.000.000 đ.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 :

+ Tịch thu, tiêu hủy: Mẫu vật còn lại sau khi đã sử dụng phục vụ giám định là 8,7463g tinh thể không màu; 01 chiếc cân tiểu ly hiệu Amput; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy và 01 cuộn băng keo màu xanh.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: Số tiền 200.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động, sau lưng máy có dòng chữ Iphone của bị cáo Nguyễn Thành C.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo C nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội; bị cáo mong muốn được khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án; căn cứ vào các tài liệu đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, thẩm quyền tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra công an huyện Nhà Bè và Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố; bị cáo, người liên quan cũng không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thành C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, cụ thể bị cáo đã bán trái phép chất ma túy cho Quách Ngọc Tuấn A 03 lần, mỗi lần 01 gói với giá 200.000 đồng; ngoài ra trước đó bị cáo bán ma túy cho Phan Minh T 02 lần, mỗi lần 01 gói ma túy đá với giá 200.000 đồng. Theo kết quả giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh thì tất cả các chất ma túy các bị cáo bán là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine thuộc danh mục II “Các chất ma túy được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của cơ quan có thẩm quyền” của Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, biên bản lấy lời khai và các tài liệu được thu thập trong hồ sơ. Do đó có đủ cơ sở kết luận bị cáo C đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhiều lần, hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, bị cáo C đã khai nhận hưởng lợi từ việc bán ma túy trái phép trong khoảng thời gian từ tháng 8/2017 đến ngày 18/12/2017 là 8.000.000 đồng. Do đó đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè về việc buộc bị cáo C phải nộp lại số tiền thu lợi bất chính 8.000.000 đồng là có căn cứ. Ngoài ra cần buộc bị cáo nộp phạt 10.000.000 đ theo khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự 1999 mới đủ tác dụng răn đe.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Mục đích của bị cáo bán ma túy nhằm thỏa mãn cơn nghiện của mình và tiêu xài cá nhân, điều này xâm phạm đến hoạt động quản lý độc quyền của Nhà nước về ma túy, đồng thời gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người đã trưởng thành nhưng không chịu lao động chân chính, có quá trình cai nghiện ma túy nhưng vẫn tái nghiện, do đó cần phải có mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Quá trình tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Công đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là thuộc trường hợp quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 48 Bộ luật Hình sự.

[4] Về vật chứng và xử lý vật chứng:

- Đối với các mẫu vật còn lại sau khi đã sử dụng phục vụ giám định là 8,7463g tinh thể không màu; 01 chiếc cân tiểu ly hiệu Amput; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy và 01 cuộn băng keo màu xanh cần tịch thu tiêu hủy theo khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Đối với 01 chiếc điện thoại di động, sau lưng máy có dòng chữ Iphone do Nguyễn Thành Công dùng để liên lạc khi bán ma túy là công cụ để bị cáo thực hiện hành vi phạm tội; số tiền 200.000 đồng thu giữ của bị cáo C sau khi bán ma túy là số tiền do bị cáo phạm tội mà có nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo C phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm b khoản 2, Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Xử phạt: Nguyễn Thành C 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/12/2017.

- Áp dụng khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Buộc bị cáo Nguyễn Thành C nộp phạt số tiền 10.000.000 đ (mười triệu đồng).

- Áp dụng Điều 40 Bộ luật hình sự 1999. Buộc bị cáo Nguyễn Thành C phải nộp 8.000.000 đ  (tàm triệu đồng) tiền thu lợi bất chính.

2. Về vật chứng:

- Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự 1999, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

+ Tịch thu tiêu hủy: Gói niêm phong bên ngoài ghi vụ 149/18 Nhà Bè, chữ ký của Đại úy DSCKI Nguyễn Mạnh Hùng và chữ ký CBĐT Trần Quang Dũng; Gói niêm phong bên ngoài ghi vụ 150/18 Nhà Bè, chữ ký của Đại úy DSCKI Nguyễn Mạnh Hùng và chữ ký CBĐT Trần Quang Dũng; 01 chiếc cân tiểu ly hiệu Amput màu đen; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy bằng thủy tinh; 01 cuộn băng keo màu xanh.

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động sau lưng máy có dòng chữ Iphone, Imel: 013427002099000 đã bị vỡ và số tiền 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) trong tài khoản số 6340203000023 tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh Nhà Bè. (Theo phiếu nhập kho ngày 18/4/2018).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo C phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2018/HS-ST ngày 16/05/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:19/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về