Bản án 19/2018/HS-ST ngày 05/04/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 19/2018/HS-ST NGÀY 05/04/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 05 tháng 4 năm 2018, tại Ủy ban nhân dân phường Phước Mỹ, Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 17/2018/HSST ngày 21 tháng 3 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2018/HSST- QĐ ngày 22 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: NGUYỄN VĂN NG, sinh ngày 06/8/1995; Nơi đăng ký HKTT: khu phố 6, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp:làm thuê; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Giới tính: Nam; Trình độ văn hoá: 7/12; Tiên an , tiền sự: không; Con ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1974 và bà Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1974 ( đã chết); Bị cáo bị bắt theo lệnh truy nã, tạm giữ từ ngày 07/01/2018, hiện đang tạm giữ tại nhà tạm giữ công an thành phố Phan rang – Tháp chàm, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

-Người bị hại: Ông Nguyễn Trường Thông Th, sinh năm 1985 ( có đơn vắng mặt).

Trú tại: Khu phố 2, phường B, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Tr, sinh năm 1995 ( vắng mặt).

Trú tại: Khu phố 4, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

2. Bà Võ Thị Bạch C, sinh năm 1957 ( vắng mặt).

Trú tại: Khu phố 4, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

3. Ông Trần Hữu H, sinh năm 1994 ( vắng mặt).

Trú tại: Khu phố 6, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Theo bản cáo trạng: Khoảng 19 giờ 30 ngày 13/6/2015, anh Nguyễn Trường Thông Th (Sinh năm 1985, trú tại: Khu phố 2, phường B, thành phố P) nhờ Trần Hữu H (Sinh năm: 1994, trú tại: Khu phố 6, phường Đ, thành phố P) chở đến nhà Nguyễn T (Sinh năm 1995, ở khu phố 4, phường Đ) gặp Nguyễn Văn Ng, để đòi tiền sửa xe thì thấy Ng đang ngồi chơi trước nhà anh T nên anh Th xuống xe đi bộ đến chỗ Ng đang ngồi và kéo tay Ng đi ra khoảng 05 mét để nói chuyện. Do Ng chưa có tiền trả cho anh Th nên giữa anh Th và Ng xảy ra to tiếng với nhau, Th dùng tay phải tát vào mặt Ng một cái. Ngay lúc này, Ng dùng tay phải cầm sẵn một con dao, loại bấm dài 22,5cm cả cán và lưỡi đâm một nhát trúng vào hông trái của anh Th, rồi Ng cầm dao đến Công an phường Đ giao nộp và tự thú khai nhận hành vi phạm tội của mình. Anh Th được mọi người đưa đi cấp cứu tại bệnh viện tỉnh Ninh Thuận. Quá trình điều tra, Nguyễn Văn Ng bỏ trốn khỏi địa phương đến ngày 07/01/2018 thì bắt được Nghĩa theo Quyết định truy nã.

Tại Bản kết luận giám định pháp y thương tích số: 128, ngày 06/8/2015 của Trung tâm pháp y tỉnh Ninh Thuận, kết luận: Sức khỏe bị giảm do thương tích gây nên hiện tại cho anh Nguyễn Trường Thông Th là 56%, cụ thể như sau:

+ Vết thương ngang cơ vùng bụng hạ sườn trái sẹo liền tốt phẳng lõm kích thước (5,4x0,2)cm- 01%;

+ Vết mổ đường trắng giữa trên dưới rốn sẹo liền tốt phẳng vào ổ bụng khâu 04 lỗ thủng ruột non (40%);

+ Thủng một đoạn mạc nối lớn (26%);

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn Ng đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Ng đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”.

Tại Cáo trạng số 18/QĐ-KSĐT ngày 19/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo  khoản 3 ( điểm a khoản 1) điều 104 của Bộ luật Hình sự 1999

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: đề nghị HĐXX áp dụng khoản 3 (điểm a khoản 1) điều 104 của Bộ luật Hình sự 1999; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51, điều 54; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017; khoản 3 điều 7, điểm c khoản 3 điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 xử phạt bị cáo từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.

Xử lý vật chứng : 01 con dao bấm, làm bằng kim loại màu đen, dài 22,5cm cả cán và lưỡi (Cán dài 13cm, lưỡi dài 9,5cm, rộng 2,6cm, có nút bấm) do Nguyễn Văn Nghĩa giao nộp. Đây là hung khí mà Nguyễn Văn Nghĩa sử dụng để gây án nên tịch thu tiêu hủy.

Về dân sự: Quá trình điều tra, ông Nguyễn Trường Thông Th không yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn Ng bồi thường nên không đề cập đến.

Bị cáo nói lời sau cùng: “ Bị cáo biết sai, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo cơ hội, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa;Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an Thành phố Phan rang – Tháp chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Phan rang – Tháp chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Nguyễn Văn Ng là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, xuất phát từ việc bị ông Th dùng tay tát mạnh vào mặt khi đòi tiền nợ, bị cáo đã dùng dao đâm vào vùng bụng ông Th gây thương tích. Mặc dù có 2 bản kết luận giám định pháp y, tuy nhiên bản kết luận số 128/TgT ngày 06/8/2015 tỷ lệ thương tật 56% phù hợp với từng vết thương theo giấy chứng thương ngày 21/7/2015 và lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai người bị hại cùng các chứng cứ, các tài liệu về thương tích, kết quả giám định pháp y số 128/TgT ngày 06/8/2015. Vì vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Phan rang – Tháp chàm truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung “dùng hung khí nguy hiểm” theo khoản 3 ( điểm a khoản 1) điều 104 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trước ngày 01/01/2018, căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về thi hành Bộ luật số 100 áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo nay được quy định tại điểm c khoản 3 điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo thể hiện tính hung hãn coi thường pháp luật, manh động và thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, không những trực tiếp xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của người khác mà còn làm mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo bỏ trốn đã gây khó khăn cho công tác điều tra và bị bắt theo lệnh truy nã, do vậy cần xử lý nghiêm. Tuy nhiên, cần xem xét chiếu cố cho bị cáo vì trong vụ án này, người bị hại cũng có phần lỗi vì đã có hành vi xử sự không đúng mực như dùng tay đánh vào mặt làm tác động mạnh bị cáo, hành vi của người bị hại cũng là nguyên nhân làm bị cáo phạm tội.

[3] Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng cho bị cáo: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, ngay sau khi phạm tội đã ra trình diện đầu thú, người bị hại cũng có phần lỗi và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, hoàn cảnh gia đình bị cáo có cha đi ở tù, mẹ chết sớm. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015.

Theo quy định tại khoản 3 điều 104 Bộ luật Hình sự 1999 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2009) thì mức hình phạt tù từ 05 năm đến 15 năm cao hơn so với mức hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm quy định tại khoản 3 điều 134 Bộ luật Hình sự 2015. Căn cứ những quy định có lợi cho người phạm tội, theo Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về thi hành Bộ luật số 100; khoản 3 điều 7, khoản 3 điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 cần áp dụng khi quyết định hình phạt cho bị cáo.

Trên cơ sở căn cứ vào tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xem xét đến nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, xét thấy cần áp dụng điều 54 Bộ luật Hình sự và phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian chấp hành hình phạt tù có thời hạn như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên toà cũng đủ để răn đe, tác dụng giáo dục, đấu tranh phòng chống tội phạm.

[4] Xử lý vật chứng: 01 con dao bấm, làm bằng kim loại màu đen, dài 22,5cm cả cán và lưỡi (Cán dài 13cm, lưỡi dài 9,5cm, rộng 2,6cm, có nút bấm) là hung khí mà bị cáo Nguyễn Văn Ng sử dụng để gây án không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: Theo quy định tại điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 thì bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: khoản 3( điểm a khoản 1) điều 104 Bộ luật Hình sự 1999; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điều 54 Bộ luật Hình sự 2015; Nghị quyết 41/2017/QH 14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 điều 7; điểm c khoản 3 điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017); điều 47 Bộ luật Hình sự 2015; điều 106, điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Ng phạm tội “Cố ý gây thương tích”

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Ng 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt, tạm giữ ( ngày 07/01/2018).

Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 con dao bấm, làm bằng kim loại màu đen, dài 22,5cm cả cán và lưỡi (Cán dài 13cm, lưỡi dài 9,5cm, rộng 2,6cm, có nút bấm), (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/3/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Phan rang – Tháp Chàm cho Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Phan rang - Tháp Chàm).

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn Ng phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo - quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ( ngày 05/4/2018). Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

302
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2018/HS-ST ngày 05/04/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:19/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về