TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 190/2019/HS-ST NGÀY 29/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 8 năm 2019, Tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 212/2019/TLST-HS ngày 23/8/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 209/2019/QĐXXST-HS ngày 23/8/2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Thị Phương L, sinh năm 1971; Đăng ký nhân khẩu thường trú: Số 61 B ngõ 879 Đê La Thành, phường Ngọc Khánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông : Nguyễn Đình Chúc (đã chết) và bà Đào Tuyết Trinh; chồng Lê Phi Hải, sinh năm 1970; Có 02 con: con lớn sinh năm 1994, con nhỏ sinh năm 1996. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 27/5/2019; tạm giam ngày 04/6/2019. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người liên quan: Chị Đặng Phương Q, sinh năm 1981.
HKTT: 61B ngõ 879 Đê La Thành, phường A, quận B, thành phố C (Vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 27 tháng 5 năm 2019, tổ công tác Công an phường Mỹ Đình 1 làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát tại khu vực Bến xe buýt cạnh Ký túc xá Mỹ Đình trên đường Hàm Nghi, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội thì phát hiện Nguyễn Thị Phương L đang có hành vi bán trái phép chất ma tuý cho 01 nam thanh niên không quen biết. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và dẫn giải Nguyễn Thị Phương L cùng vật chứng về Cơ quan điều tra xác minh làm rõ. Lợi dụng sơ hở đối tượng mua ma tuý chạy thoát.
Vật chứng thu giữ của NguyễnThị Phương L:
+ 19 túi nilon bên trong chứa thảo mộc khô nghi là ma tuý cần sa;
+ 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave RS BKS: 29V6-3376;
+ 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu GOA A20, gắn số: 0594669380;
+ 1.020.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam;
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1110 gắn số: 0332896003 (thu giữ tại hiện trường).
Tại bản Kết luận giám định số 3315 ngày 03/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội xác định: Thảo mộc khô bên trong 19 túi nilon đều là Cần sa, tổng khối lượng 44,720 gam.
Quá trình điều tra xác định:
Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 27 tháng 5 năm 2019, Nguyễn Thị Phương L đang ở khu vực Bến xe Mỹ Đình thì nhận được điện thoại của 01 nam thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) hỏi mua 05 gói cần sa với giá 1.000.000 đồng ( một triệu đồng). L trả lời chưa có ngay, phải đợi đến chiều mới có và cả hai thống nhất khi có ma tuý sẽ giao dịch tại khu vực Bến xe buýt cạnh Ký túc xá Mỹ Đình trên đường Hàm Nghi, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm,thành phố Hà Nội và người đó phải trả 70.000 đồng ( bảy mươi nghìn đồng) tiền công vận chuyển.
Do trước đó L được một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) sử dụng số điện thoại: 0979918128 gọi đến nói có ma tuý cần sa bán với giá 120.000 đồng (một trăm hai mươi nghìn đồng) một gói. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, L liên hệ với người này để hỏi mua 19 túi cần sa với giá 2.600.000 đồng ( hai triệu sáu trăm nghìn đồng) và hẹn giao dịch tại cổng làng Phú Mỹ, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Đến khoảng 13 giờ 00 phút cùng ngày, L một mình điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave RS, BKS: 29V6-3376 đến điểm hẹn, nhận cần sa từ một người xe ôm và thanh toán số tiền 2.500.000đ ( hai triệu năm trăm nghìn đồng) và cất số cần sa vừa mua được vào túi xách rồi điều khiển xe máy đến nhà con gái ruột là Nguyễn Phương A sinh năm: 1996, NKTT: P401 Khu tập thể Y7, phường Phương Mai, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội để ăn cơm và nhờ Adẫn đường đến Ký túc xá Mỹ Đình. L chỉ nói cho A biết đến giao hàng cho khách, nhưng không nói là giao ma túy. Sau đó, L điều khiển xe máy, chở theo A ngồi sau đến Ký túc xá Mỹ Đình, khi nam thanh niên này vừa đưa cho L số tiền 1.020.000 đồng, Nguyễn Thị Phương L chưa kịp đưa ma tuý thì bị tổ công tác Công an phường Mỹ Đình 1 phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng. Lợi dụng sơ hở, nam thanh niên mua ma tuý đã bỏ chạy làm rơi lại chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 1110 (gắn SIM số: 0332896003).
Đối với Lê Phương A là người đi cùng L khi bị bắt quả tang. Quá trình điều tra xác định Nguyễn Thị Phương L không nói hay trao đổi gì với A về việc mua bán ma tuý, A không biết L mang ma tuý đi bán cho khách nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
Đối với đối tượng bán ma túy cho L và mua ma túy của L (như L khai) quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch, nên không có căn cứ để điều tra xử lý.
Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave RS BKS: 29V6- 3376, qua điều tra xác định chủ sở hữu là chị Đặng Phương Q (sinh năm 1981, HKTT: 61B ngõ 879 Đê La Thành, phường A, quận B, thành phố C) cho Nguyễn Thị Phương L mượn để sử dụng nhưng chị Q không biết L dùng xe vào việc đi bán ma túy. Do đó, ngày 26/7/2019, Cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe máy nêu trên cho chị Q.
Tại bản cáo trạng số 228/CT-VKS ngày 20/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm thì Nguyễn Thị Phương L bị truy tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251của Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Thị Phương L khai nhận hành vi của mình, thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm như cáo trạng truy tố và kết luận bị cáo Nguyễn Thị Phương L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Sau khi đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xem xét tình tiết giảm nhẹ, đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù.
Xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy: 19 túi nilon bên trong chứa thảo mộc khô nghi là ma tuý cần sa;
- Tịch thu sung quỹ nhà nước:
+ 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu GOA A20, gắn số: 0594669380;
+ 1.020.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam;
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1110 gắn số: 0332896003 (thu giữ tại hiện trường).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
[2] Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ kết quả xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 27 tháng 5 năm 2019, tại khu vực Bến xe buýt cạnh Ký túc xá Mỹ Đình trên đường Hàm Nghi, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Nguyễn Thị Phương L đã có hành vi cất giấu 19 gói ma tuý cần sa, có tổng khối lượng 44,720 gam mục đích để bán kiếm lời. Khi Nguyễn Thị Phương L đang nhận tiền để bán 05 gói cho một người không quen biết thì bị tổ công tác Công an phường Mỹ Đình 2 bắt quả tang cùng vật chứng. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Phương L đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền kiểm soát các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, bị cáo nhận thức được việc bán ma túy cho đối tượng khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì lợi nhuận bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Do đó, hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm khắc, áp dụng mức hình phạt tù giam cách A bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đồng thời mới có tác dụng giáo dục riêng bị cáo cũng như răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét bị cáo thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải, nhân thân chưa có tiền án tiền sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt tiền với bị cáo.
[5]Về vật chứng vụ án:
- Tịch thu tiêu hủy: 19 túi nilon bên trong chứa thảo mộc khô nghi là ma tuý cần sa;
- Tịch thu sung quỹ nhà nước:
+ 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu GOA A20, gắn số: 0594669380;
+ 1.020.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam;
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1110 màu trắng xanh gắn số: 0332896003.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 251; Điều 38; Điều 47; Điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;
- Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Phương L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt Nguyễn Thị Phương L 24 (hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/5/2019.
- Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn tại các mép dán có chữ ký niêm phong của Nguyễn Thị Phương L và giám định viên
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu GOA A20, gắn số: 0594669380; 1.020.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1110 gắn số: 0332896003 (Theo biên bản giao nhận vật chứng số 202 ngày 21/8/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội và Giấy nộp tiền vào tài khoản số 3949 ngày 21/8/2019 tại Kho bạc nhà nước quận Nam Từ Liêm).
Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người liên quan là chị Đặng Phương Q có quyền kháng cáo đối với phần liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 190/2019/HS-ST ngày 29/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 190/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về