Bản án 190/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 190/2019/HS-ST NGÀY 18/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 11 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 189/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 197/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Vy Văn D, sinh ngày 20 tháng 3 năm 1990, tại tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn N, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 06/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vy Văn B và bà Lăng Thị S (đã chết); vợ: Hoàng Thị C; con: Có 01 con sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 28/8/2015 bị Tòa án nhân dân thành phố L xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (tiền án đã được xóa); ngày 26/8/2016 bị Tòa án nhân dân thành phố L quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc về hành vi Trộm cắp tài sản, ngày 31/01/2018 đã chấp hành xong (tiền sự đã được xóa); bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/8/2019 đến nay. Có mặt.

2. Vũ Đức T, sinh ngày 31 tháng 10 năm 1985, tại tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số 26, đường T, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Tuấn T và bà Vũ Kim D; vợ: Hoàng Thị L; con: Có 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 25/5/2009 bị Công an thành phố L xử phạt 350.000 đồng về hành vi gây rối trật tự công cộng (tiền sự đã được xóa); bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/8/2019 đến nay. Có mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Thành C; địa chỉ: Thôn H, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Trọng T; địa chỉ: Số 122, đường P, khối 5, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 16/8/2019, Vy Văn D đến chơi game tại quán nét; địa chỉ số 116, đường B, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn thì gặp H, nhà ở thị trấn N, huyện V, tỉnh Lạng Sơn (không rõ họ, địa chỉ cụ thể). Sau khi chơi game hết tiền Vy Văn D rủ Hoàng đi kiếm tiền để chơi game, Vy Văn D Dũng và H đi bộ đến thôn H, xã H, thành phố L nhìn thấy nhà anh Nguyễn Thành C treo lồng chim trên tường trước nhà không có người trông coi. Vy Văn D bàn với H, trộm cắp chim đem bán, H ý. Vy Văn D bảo Hoàng ở bên ngoài tường rào cảnh giới, Vy Văn D trèo tường rào vào lấy trộm 02 lồng chim bằng gỗ bên trong có 02 con chim họa mi, rồi đưa ra ngoài tường rào cho H. Đến khoảng 06 giờ 30 phút cùng ngày, Vy Văn D và H mang 02 lồng và 02 con chim trộm cắp được ra chợ B, phường V, thành phố L bán cho một người phụ nữ không quen biết giá 400.000 đồng và chia nhau mỗi người 200.000 đồng.

Khong 01 giờ ngày 23/8/2019, Vy Văn D tiếp tục đến chơi game tại quán nét, địa chỉ số 116, đường B, phường H, thành phố L thì gặp bạn là Vũ Đức T. Sau khi chơi game hết tiền, Vy Văn D rủ Vũ Đức T cùng đi trộm cắp chim. Vy Văn D dẫn Vũ Đức T đi đến trước nhà anh Nguyễn Thành C tiếp tục trộm cắp tài sản. Quan sát xung quanh không có người, Vy Văn D bảo Vũ Đức T ở bên ngoài tường rào cảnh giới, còn Vy Văn D trèo tường rào lấy trộm 01 (một) lồng chim bằng tre hình trụ tròn bên trong có 01 (một) con chim khướu má bạc và 01 (một) lồng chim bằng gỗ hình chữ nhật bên trong có 01 (một) con chim chào mào treo trên tường trước nhà, rồi đưa ra ngoài cho Vũ Đức T. Khoảng 07 giờ cùng ngày Vy Văn D và Vũ Đức T mang hai lồng chim trộm cắp được bán cho ông Nguyễn Trọng T với giá 450.000 đồng. Sau khi có tiền cả hai đi mua ma túy cùng nhau sử dụng và chơi game hết.

Ti biên bản định giá tài sản số 173, 174/ĐGTSTT ngày 24/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố L xác định: 02 con chim Họa mi, 02 chiếc lồng chim, trị giá 6.500.000 đồng; 01 con chim chào mào trống, 01 con chim khướu má bạc trống và 02 chiếc lồng chim trị giá 3.740.000 đồng Tổng cộng là 10.240.000 đồng.

Ti bản cáo trạng số 188/CT-VKS ngày 25 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L đã truy tố các bị cáo Vy Văn D, Vũ Đức T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, các bị cáo Vy Văn D, Vũ Đức T thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố.

Bị hại anh Nguyễn Thành C vắng mặt tại phiên tòa. Tại các bản khai tại cơ quan điều tra và đơn xin xét xử vắng mặt trình bày: Anh đã được nhận lại 02 lồng chim và 01 con chim chào mào. Nay anh không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường thêm gì.

Ông Nguyễn Trọng T vắng mặt tại phiên tòa. Tại các bản khai và đơn xin xét xử vắng mặt trình bày: Ông là người mua 02 (hai) lồng chim có 01 (một) con chim khướu trống má bạc và 01 (một) con chim chào mào, ông không biết tài sản trên là tài sản phạm tội mà có, ông không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì.

Ti phiên tòa đại điện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Vy Văn D, Vũ Đức T phạm tội Trộm cắp tài sản. Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 17, Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Vy Văn D từ 15 đến 18 tháng tù. Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 38; điểm b, s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Vũ Đức T 07 đến 09 tháng tù. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Về bồi thường thiệt hại do bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không yêu cầu, ghi nhận bị cáo Vũ Đức T đã nộp 1.000.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L để khắc phục hậu quả cho bị hại. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định.

c bị cáo không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 16/8/2019, Vy Văn D đã có hành vi trộm cắp tài sản là 02 lồng chim bằng gỗ bên trong có hai con chim họa mi, trị giá 6.500.000 đồng. Ngày 23/8/2019, Vy Văn D và Vũ Đức T có hành vi trộm cắp tài sản 01 (một) lồng chim bằng tre hình trụ tròn bên trong có 01 (một) con chim khướu má bạc và 01 (một) lồng chim bằng gỗ hình chữ nhật bên trong có 01 (một) con chim chào mào, trị giá 3.740.000 đồng của bị hại Nguyễn Thành C. Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 10.240.000 đồng. Do đó, hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự, vì vậy Cáo trạng đã truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi theo quy định của pháp luật Hình sự. Các bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của các chủ sở hữu lén lút chiếm đoạt tài sản, thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, mục đích nhằm đem bán lấy tiền để thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Hành vi trộm cắp tài sản của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện sự coi thường pháp luật, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn thành phố. Vì vậy, cần thiết phải xử lý nghiêm để giáo dục răn đe các bị cáo.

[3] Về nhân thân: Các bị cáo Vy Văn D, Vũ Đức T đều có sức khỏe tuy nhiên do thiếu tu dưỡng, lười lao động, nghiện ma túy, bị cáo Vũ Đức T đã bị Công an thành phố L xử phạt hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng, bị cáo Vy Văn D năm 2015 đã bị Tòa án nhân dân thành phố L xét xử về tội Trộm cắp tài sản và quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc về hành vi Trộm cắp tài sản năm 2016 nhưng các bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Vũ Đức T đã ra đầu thú, lần phạm tội này thuộc trường hợp phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình tạm giam đã có tác động đến gia đình để khắc phục hậu quả đối với con chim trộm cắp không thu hồi được cho anh Nguyễn Thành C, có bố ông Vũ Tuấn T được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến do đó bị cáo Vũ Đức T được hưởng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ tại điểm i khoản 1 Điều 51 và 03 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Vy Văn D có 02 lần trộm cắp tài sản, những lần trộm cắp này đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm, nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng Phạm tội 02 lần trở lên được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[6] Xét vai trò của các bị cáo: Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, để cá thể hóa trách nhiệm hình sự cần xem xét, đánh giá hành vi, vai trò cũng như sự tham gia phạm tội của từng bị cáo để có mức án tương xứng đối với từng bị cáo. Trong vụ án này bị cáo Vy Văn D là người khởi xướng, rủ rê, trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, giữ vai trò chính, bị cáo Vũ Đức T đóng vai trò là người giúp sức, cảnh giới bên ngoài. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và vai trò của từng bị cáo, các tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy bị cáo Vy Văn D phải chịu hình phạt nghiêm khắc hơn. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, Hội đồng xét xử quyết định cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, đủ để cải tạo các bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời góp phần răn đe và phòng ngừa tội phạm tại địa phương.

[7] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh 09/9/2019 thể hiện các bị cáo không có tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. [8] Về xử lý vật chứng: Ngày 24/8/2019 Cơ quan điều tra đã trả 02 lồng chim bằng và 01 con chim chào mào cho chủ sở hữu anh Nguyễn Thành C. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có yêu cầu bồi thường, tại phiên tòa bị cáo Vũ Đức T thể hiện ý chí tự nguyện vẫn đề nghị bồi thường cho bị hại. Vì vậy Hội đồng xét xử ghi nhận bị cáo Vũ Đức T đã tự nguyện nộp 1.000.000 đồng để bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại Nguyễn Thành Chung.

[10] Ông Nguyễn Trọng T là người mua 02 (hai) lồng chim có 01 (một) con chim khướu trống má bạc và 01 (một) con chim chào mào, ông không biết tài sản trên là tài sản do phạm tội mà có, ông không yêu cầu các bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không đề cập.

[11] Đối người thành niên tên H và người phụ nữ mua 02 lồng chim mỗi lồng có một con chim họa mi ở khu vực chợ bờ sông, phường V, thành phố L Cơ quan điều tra chưa xác định được lai lịch nên chưa có cơ sở giải quyết.

[12] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, việc thu thập tài liệu, chứng cứ được thực hiện đúng quy định Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[13] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước.

[14] Các bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào khoản 1 Điều 173; Điều 17, Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Vy Văn D. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 38; điểm b, s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Vũ Đức T;

Căn cứ vào khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. 1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Vy Văn D, Vũ Đức T phạm tội Trộm cắp tài sản.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Vy Văn D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 24/8/2019.

Xử phạt bị cáo Vũ Đức T 07 (bẩy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 24/8/2019.

3. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận bị cáo Vũ Đức T tự nguyện nộp số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng) để bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại Nguyễn Thành Chung theo biên lai số AA/2015/0003270 ngày 30/8/2019 tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn.

4. Về án phí: Các bị cáo Vy Văn D, Vũ Đức T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà Nước.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 190/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:190/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về