Bản án 190/2019/HS-ST ngày 03/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH - TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 190/2019/HS-ST NGÀY 03/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 7 năm 2019 tại Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 187/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 187/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 6 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ tên: Nguyễn Văn T - sinh năm 1986 tại: Tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Xóm T, thôn D, xã A, huyện B, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Nguyễn Thị H; có vợ Vũ Thị H và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 16-7-2008 bị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25-4-2019, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 04-5-2019 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chị Trần Thị Kim D - sinh năm 1982, nơi cư trú: Số 311 đường Đ, tổ 7, phường Đ, thành phố L, tỉnh Hà Nam; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 08 giờ ngày 25-4-2019, Nguyễn Văn T đi xe ôm từ nhà đến Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định mục đích tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi đi đến phòng 310E khoa cấp cứu sơ sinh, T phát hiện tại giường bệnh nhân đầu tiên ngay sát cửa ra vào có chị Trần Thị Kim D đang bế con quay lưng ra cửa. Chị D có để 01 chiếc điện thoại Iphone 6S Plus màu vàng ở trên giường phía sau lưng. Lợi dụng sơ hở lúc chị D mải bế con không để ý đến tài sản, T đi đến giường của chị D rồi dùng tay phải lấy chiếc điện thoại Iphone 6S Plus trên bỏ vào cạp quần trước bụng. Khi vừa lấy được điện thoại thì bị bà Đỗ Thị H - sinh năm 1962, nơi cư trú: Xóm T, xã V, thành phố Đ đang ngồi trong phòng 310E phát hiện hô hoán. Chị D cùng mọi người đuổi theo. T bỏ chạy xuống tầng 2 thì bị chị D cùng mọi người bắt giữ được, thu giữ trong thắt lưng quần trước bụng 01 điện thoại Iphone 6S Plus, sau đó đưa T cùng vật chứng về trụ sở Công an phường Ngô Quyền làm việc.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp như đã nêu trên.

Hi đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Nam Định đã tiến hành định giá và kết luận: Chiếc điện thoại di động Iphone 6S Plus Nguyễn Văn T chiếm đoạt có trị giá 4.000.000 đồng. Sau khi định giá, cơ quan điều tra đã trả lại chiếc điện thoại trên cho bị hại là chị Trần Thị Kim D. Chị Trần Thị Kim D đã nhận lại tài sản và không có đề nghị gì khác.

Bản cáo trạng số 190/CT-VKS ngày 13-6-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Nguyễn Văn T tại phiên tòa thể hiện hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015: Phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù.

Bị cáo Nguyễn Văn T nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T; bị hại là chị Trần Thị Kim D không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn T phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên có đủ cơ sở xác định: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 25-4-2019, tại phòng 310E khoa cấp cứu sơ sinh Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định, bị cáo Nguyễn Văn T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc điện thoại di động Iphone 6S Plus của chị Trần Thị Kim D có trị giá 4.000.000 đồng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ và bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Tài sản bị cáo chiếm đoạt có trị giá 4.000.000 đồng. Như vậy hành vi của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về các tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về các tình tiết tăng nặng: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về hình phạt: Xét bị cáo là đối tượng có nhân thân xấu, đã từng bị đưa ra xét xử nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để ăn năn hối cải mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội thể hiện bản chất coi thường pháp luật, tuy nhiên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử chỉ xử phạt bị cáo ở mức thấp của khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo không có công việc ổn định nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt đã thu hồi trả lại bị hại, bị hại là chị Trần Thị Kim D đã nhận lại tài sản và không có đề nghị gì khác nên phần bồi thường dân sự đã giải quyết xong.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25-4-2019.

2. Án phí:

- Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016.

Bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo:

Bị cáo Nguyễn Văn T được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại là chị Trần Thị Kim D được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 190/2019/HS-ST ngày 03/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:190/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về