Bản án 188/2021/HS-PT ngày 06/05/2021 về tội cưỡng đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 188/2021/HS-PT NGÀY 06/05/2021 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 125/2021/TLPT-HS ngày 17 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Văn U và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn U và Nguyễn Minh T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2021/HS-ST ngày 03/02/2021 của Tòa án Nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Văn U, sinh năm 1989 tại K; nơi ĐKTT: 12/17/10A Đinh Công T, KP3, phường R, thành phố G, tỉnh K; chỗ ở: 2737A Phạm Thế H, Phường X, Quận Y, Thành phố H; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Lê Thị X; chưa có vợ con; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt tạm giam từ ngày 15/3/2020, có mặt.

2. Nguyễn Minh T, sinh năm 2000 tại LA; nơi ĐKTT: Ấp 1, xã T, thị xã K, tỉnh L; chỗ ở: D20/533E Nguyễn Văn L, ấp X, xã P, huyện B, Thành phố H; nghề nghiệp: Sửa điện thoại; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị T; vợ con chưa có; tiền án: không; tiền sự: ngày 06/06/2019, bị Ủy ban nhân dân xã Phong Phú,huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt vi phạm hành chính 2.500.000 đồng về hành vi “Xâm hại đến sức khoẻ của người khác” đã nộp tiền phạt ngày 10/6/2019; bị bắt tạm giam từ ngày 09/7/2020, có mặt.

Ngoài ra còn có bị cáo Lê Thị Diễm T không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

Bị hại: Ông Nguyễn Thanh S, sinh năm 1968, địa chỉ: D20/527A Trịnh Q Nị, xã P, huyện B, Thành phố H, có mặt (Tòa án cấp sơ thẩm xác định là người làm chứng).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Võ Văn T, sinh năm , địa chỉ: 357/31/50 Hậu G, Phường X, Quận K, Thành phố H, vắng mặt.

2. Bà Hoàng Thị Đ, sinh năm 1985, địa chỉ: 2805/32 Phạm Thế H, Phường X, Quận Y, Thành phố H, vắng mặt (Tòa án cấp sơ thẩm xác định là bị hại).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tháng 02 năm 2020, bà Hoàng Thị Đ có vay của Nguyễn Văn U số tiền 10.000.000 đồng, lãi suất 20%/tháng và vay của Lê Thị Diễm T số tiền 20.000.000 đồng, lãi suất 15%/tháng, không thế chấp tài sản.

Đến khoảng 15 giờ 30 phU ngày 15/3/2020, U và người bạn tên Hải (không rõ lai lịch) điều khiển xe gắn máy Honda Vision (không rõ biển số) đi ngang quán nước của bà Đ tại nhà không số đối diện căn hộ 005 chung cư C2 H, Phường X, Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh thì thấy bạn trai của bà Đ là ông Nguyễn Thanh S đang chuyển một số tài sản chất lên xe ba gác. U nghĩ Đ và S tẩu tán tài sản để trốn nợ nên điện thoại thông báo cho T biết. Khi tới nơi, T gặp và hỏi ông S thì ông S trả lời không biết việc bà Đ mượn tiền của T và U. Lúc này, T gọi điện cho Nguyễn Minh T, nhờ T đến cùng T đi công việc, T điều khiển xe gắn máy chở V Trường V, Trương Minh N và Võ Điền Q đi cùng.

Đến khoảng hơn 16 giờ cùng ngày 15/3/2020, T điều khiển xe gắn máy Honda Vario chở V, N, Q đến nhà không số đối diện căn hộ 005 chung cư C2 Him Lam, Phường 7, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh để gặp T.

Lúc này, U đi bộ vào quán nước của bà Đ gặp ông S để nói chuyện nợ nần giữa bà Đ với U và T thì giữa U và ông S có cự cãi. U cầm 01 ly nhựa ném vào ông S nhưng không trúng khiến ông S hoảng sợ bỏ chạy vào phòng ngủ khoá cửa. Thấy ông S sợ không dám ra khỏi phòng, ngay lập tức U bàn bạc với T lấy tài sản của bà Đ đưa về nhà cho T cất giữ, khi nào Đ trả nợ thì U và T trả lại số tài sản này cho bà Đ thì T đồng ý. Cùng lúc này, T đi bơm bánh xe xong về đến thì T nói: “Bà này thiếu tiền chị mà bả trốn, ông này ổng không là gì mà ổng đem đồ đi bán, giờ ổng trốn trong phòng luôn, mấy đứa coi có cái nào có giá trị thì dọn đem ra xe giùm chị” và nhờ nhóm T gọi xe ba gác máy để vận chuyển tài sản. V đi tìm gặp và kêu anh Võ Văn Tín điều khiển xe ba gác biển số: 61L7- 7542 đến. Sau đó T kêu T, N, Q vào hỗ trợ đem tài sản của bà Đ ra ngoài để lên xe ba gác. Ngoài ra, U cũng nói với T, N, V, Q “Bà Đ thiếu nợ anh giờ bả trốn luôn rồi, mấy em vô nhà đem đồ ra xe giùm anh!” T, N, V, Q nghe T và U nói thì mới biết chủ nhà thiếu nợ T và U, nay U và T muốn lấy tài sản để buộc con nợ trả tiền (siết nợ) nên đồng ý. Khi cả nhóm đang đem tài sản của bà Đ chất lên xe ba gác thì Lại Thanh Phong chạy ngang, do quen biết nên U gọi Phong dừng lại nói chuyện rồi nhờ Phong hỗ trợ đem tài sản ra xe ba gác. Khi các đối tượng đang chuyển tài sản lên xe ba gác thì Công an Phường 7, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện thu giữ số tài sản mà các đối tượng chiếm đoạt của bị hại gồm: 01 bộ máy lạnh hiệu LG, 01 máy giặt hiệu Panasonic, 01 quạt điện hiệu Trường Hải, 01 máy chiên thực phẩm (không rõ hiệu), 01 máy xay sinh tố hiệu Philip, 01 máy say sinh tố (không rõ hiệu), 01 máy ép trái cây hiệu Kitchenlux, 01 Amply hiệu California electronic, 01 ấm đun siêu tốc (không rõ hiệu), 02 thùng nhựa hiệu Ty Liên, 01 thùng loa (không rõ hiệu), 12 bàn gỗ, 05 bàn inox, 02 ghế gỗ xếp, 50 ghế inox xếp. Ngoài ra còn thu giữ 01 xe ba gác biển số 61L7- 7542 là phương tiện thực hiện hành vi phạm tội. Công an Phường 7, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh đưa toàn bộ đối tượng cùng vật chứng thu giữ về trụ sở Công an phường. Vụ việc, sau đó được lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, chuyển cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 8 thụ lý theo thẩm quyền.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi cưỡng đoạt tài sản như nêu trên.

Ngày 19/5/2020, Hội đồng định giá tài sản Quận 8 định giá, kết luận tổng trị giá tài sản do U và đồng phạm chiếm đoạt của bà Đ là 6.725.000 đồng.

Để có cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi do các bị cáo thực hiện, Cơ quan điều tra đã ban hành văn bản đề nghị Uỷ ban nhân dân Phường 7, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh cung cấp thông tin về mức độ ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Ngày 22/5/2020, Uỷ ban nhân dân Phường 7, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh có công văn trả lời: Hành vi của U và đồng phạm có ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương.

Vật chứng trong vụ án: đã được xử lí theo án sơ thẩm.

Toàn bộ số tài sản mà các đối tượng chiếm đoạt, ngày 06/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 ra Quyết định xử lý vật chừng trao trả cho chủ sở hữu là Hoàng Thị Đ. Bà Đ không yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại.

Tại bản Cáo trạng số 178/CT-VKSQ8 ngày 08/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo Nguyễn Văn U, Lê Thị Diễm T, Nguyễn Minh T về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo điểm đ khoản 2 Điều 170 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 26/2021/HS-ST ngày 03/02/2021 của Tòa án Nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn U, Lê Thị Diễm T, Nguyễn Minh T phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 170, các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn U 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/3/2020.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/7/2020.

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 170; các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58; khoản 1, khoản 2 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Thị Diễm T 03 (ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân Phường 7, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định. Và còn nhận định tại các đoạn:

[9] Đối với hành vi cho vay nặng lãi nặng của Nguyễn Văn U và Lê Thị Diễm T, do tiền thu lợi chưa đến 30.000.000 đồng, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 không xem xét xử lý.

[10] Đối với Lại TQ, do chỉ có lời khai duy nhất của U nói cho Phong biết việc chị Đ trốn nợ. Ngoài ra không còn chứng cứ nào xác định Phong biết việc lấy tài sản của chị Đ nhằm siết nợ nên không đủ căn cứ xử lý đối với Phong về hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác.

[11] Đối với anh Võ Văn Tín, khi điều khiển xe ba gác máy đến nhà chị Đ để nhận vận chuyển tài sản, anh Tín không biết hành vi của U và đồng phạm là tội phạm nên không có căn cứ xử lý.

[12] Đối với V Trường V, Trương Minh N, Võ Điền Q hiện đã bỏ trốn, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 đã ra quyết định tách vụ án hình sự, tạm đình chỉ điều tra vụ án, tạm đình chỉ điều tra bị can và quyết định truy nã đối với V, N và Q nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 08/02/2021 các bị cáo Nguyễn Văn U, Nguyễn Minh T kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc giảm nhẹ hình phạt do cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xử nặng.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại Nguyễn Thanh S trình bày: Bản thân bị các bị cáo uy hiếp tinh thần để lấy tài sản do bạn gái là bà Hoàng Thị Đ giao quản lý nên không bị thiệt hại gì về vật chất hay sức khỏe. Ông đồng ý với phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo, không có khiếu nại gì do quyền và lợi ích hợp pháp không bị xâm phạm, và xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:

Cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng về xác định tư cách tham gia tố tụng của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Tuy nhiên, tại tòa họ xác nhận không có khiếu nại, đồng ý với tội danh và hình phạt mà án sơ thẩm đã tuyên đối với các bị cáo, quyền và lợi ích hợp pháp của họ không bị xâm phạm và bị hại còn xin giảm nhẹ hình phạt cho hai bị cáo. Nên đề nghị không hủy án sơ thẩm để xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của họ mà lưu ý cấp sơ thẩm nghiêm túc rU kinh nghiệm.

Và phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ nhận định án sơ thẩm đã xét xử đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét kháng cáo của bị cáo T là có cơ sở, có tình tiết mới là bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo tại tòa và vai trò của bị cáo T trong vụ án hạn chế hơn bị cáo U và T nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo T, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt giảm cho bị cáo T xử phạt từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo U giữ nguyên mức án sơ thẩm đã tuyên.

Các bị cáo nói lời nói sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào khoảng 16 giờ 00 phU ngày 15/3/2020, tại quán nước của bà Hoàng Thị Đ là nhà không số đối diện căn hộ 005 chung cư C2 Him Lam, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo Nguyễn Văn U và Lê Thị Diễm T cùng sự giúp sức của Nguyễn Minh T và V Trường V, Trương Minh N, Võ Điền Q đã có hành vi đe dọa uy hiếp tinh thần ông Nguyễn Thanh S nhằm chiếm đoạt tài sản của bà Hoàng Thị Đ do ông S được bà Đ giao quản lý, tài sản bị chiếm đoạt có trị giá là 6.725.000 đồng. Nguyên cớ là do trước đó bà Hoàng Thị Đ có quan hệ vay tài sản của Nguyễn Văn U, Lê Thị Diễm T và cả hai nhìn thấy ông S di chuyển tài sản của bà Đ do suy nghĩ bà Đ tẩu tán tài sản để trốn nợ nên các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Công an Phường 7, Quận 8 phát hiện bắt quả tang ngay khi các bị cáo đang di chuyển tài sản lên xe ba gác. Hành vi phạm tội của các bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi và trao trả cho chủ sở hữu là bà Hoàng Thị Đ.

[2] Như vậy, người bị uy hiếp tinh thần tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội nhằm chiếm đoạt tài sản là ông Nguyễn Thanh S, bà Hoàng Thị Đ là chủ sở hữu tài sản giao cho ông S quản lý, bà Đ không có mặt. Do đó, bị hại là ông S, còn bà Đ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Tại phiên tòa, ông S đã xác nhận không bị thiệt hại gì về vật chất hay sức khỏe. Ông đồng ý với phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo, không có khiếu nại gì do quyền và lợi ích hợp pháp không bị xâm phạm, và xin giảm nhẹ hình phạt cho hai bị cáo. Bà Đ cũng đã nhận lại toàn bộ tài sản và không có khiếu nại gì. Như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của họ đã được xác nhận, đảm bảo tại phiên tòa phúc thẩm nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không hủy án sơ thẩm để xác định lại tư cách tố tụng mà chỉ sửa lại tư cách tố tụng cho đúng quy định của pháp luật tố tụng. Tòa án cấp sơ thẩm cần nghiêm túc rU kinh nghiệm về vấn đề này.

[3] Với hành vi nêu tại đoạn [1], Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử các bị cáo Nguyễn Văn U, Nguyễn Minh T và đồng phạm về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo điểm đ khoản 2 Điều 170 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm) là đúng người, đúng tội, không oan sai.

[4] Khi lượng hình Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã thu hồi trả lại cho chủ sở hữu nên phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; phạm tội lần đầu đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn U và Nguyễn Minh T mỗi bị cáo 03 năm tù là chưa phân hóa vai trò đồng phạm của từng bị cáo, cụ thể bị cáo T là người giúp sức theo rủ rê và chỉ đạo của bị cáo U và T nên mức độ tham gia có phần hạn chế hơn hai bị cáo này cho nên mức hình phạt phải thấp hơn hai bị cáo còn lại. Do đó, cần xem xét áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 cho bị cáo T khi quyết định hình phạt. Còn mức hình phạt đối với bị cáo U là thỏa đáng có phần nhẹ nhưng không làm xấu đi tình trạng của bị cáo do không bị kháng cáo, kháng nghị.

[5] Xét các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đây là tình tiết mới quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Và cùng với lập luận tại các đoạn nêu trên Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận phần lớn quan điểm của Kiểm sát viên, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo T, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo U và sửa bản án sơ thẩm giảm hình phạt tù cho bị cáo T theo quy định tại điểm a điểm b khoản 1 Điều 355 và Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6] Bị cáo U phải chịu án phí hình sự phúc thẩm, bị cáo T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo qui định tại khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án có hiệu lực ngày 01/01/2017.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a điểm b khoản 1 Điều 355 và Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 170, điểm h điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 (áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Minh T) và Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án có hiệu lực ngày 01/01/2017.

Sửa bản án sơ thẩm.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn U 03 (ba) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/3/2020.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/7/2020.

Bị cáo T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo U phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

409
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 188/2021/HS-PT ngày 06/05/2021 về tội cưỡng đoạt tài sản

Số hiệu:188/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về