Bản án 188/2017/HSST ngày 26/12/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 188/2017/HSST NGÀY 26/12/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 26 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân Huyện A, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 212/2017/TLST-HS ngày 28 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 202/2017/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 12 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ tên: Vũ Minh C-sinh năm 1985. HKTT: Thôn Cốc L, Xã Minh T Huyện Kiến T, Thành phố Hải Phòng. Nghề nghiệp: Lái xe ô tô. Văn hóa: 12/12.Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Con ông: Vũ Văn T và bà: Vũ Thị M. Vợ: Vũ Thị T. Bị cáo không phải là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. TATS: Không. Tạm giữ từ ngày 28/8/2017 đến ngày 06/9/2017. Tạm giam từ ngày 06/9/2017. Danh chỉ bản số 382 ngày 31/8/2017 của công an huyện A.

- Người bị hại: nạn nhân Lê Thị V, sinh năm 1968. Trú tại: Thôn B, Kim C, Huyện A, Thành phố Hà Nội (đã chết ngày 28/8/2017 do tai nạn giao thông).

Người đại diện hợp pháp của nạn nhân V: Ông Trần Văn V, sinh năm 1963 (là chồng nạn nhân V) và chị Trần Thị Ngọc L, sinh năm 1988, anh Trần Thế A, sinh năm 1998 (Là các con của nạn  nhân V). Đều trú tại: Thôn B, Kim, Huyện A, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền của ông V, chị L, anh Thế A: Ông Trần Văn D, sinh 1957. Trú tại: Thôn B, Kim C, Huyện A, Thành phố Hà Nội. Có mặt.

- Bị đơn dân sự: Công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Hưng M.

Địa chỉ: Tổ dân phố Yên N, Phường Liên M, Quận Bắc Từ L, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Đỗ Thị C– Giám đốc .

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Quốc U, sinh năm 1978- Phó giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Hưng M. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Vũ Thị M, sinh năm 1964. Trú tại: Thôn Cốc, Xã Minh T, Huyện Kiến T, Thành phố Hải Phòng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 10 phút ngày 28/8/2017, Vũ Minh C (Sinh năm 1985, HKTT: Cốc L, Minh T, Kiến T, Hải Phòng; có giấy phép lái xe ôtô hạng C) điều khiển xe ôtô tải BKS: 29C- 805.67 lưu thông trên đường vành đai khu Công nghiệp Thăng L, chiều Cổng A Khu Công nghiệp Thăng L đi cầu vượt Kim C. Khi đi đến khu vực đường giao nhau có báo hiệu vòng xuyến gầm cầu vượt Kim C, Vũ Minh C điều khiển xe ôtô chuyển hướng rẽ phải ra đường Võ Văn K để đi về phía cầu Thăng L, do không chú ý quan sát, dẫn đến đâm vào người và xe đạp do bà Lê Thị V (Sinh năm 1968; HKTT: Đội 5, Thôn B, Kim C, A, Hà Nội) điều khiển lưu thông phía trước cùng chiều. Hậu quả: Bà Lê Thị V tử vong tại chỗ. Sau khi gây tai nạn, Vũ Minh C đã đến cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện A đầu thú.

Sự việc xảy ra, cơ quan điều tra đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm các dấu viết phương tiện liên quan, khám nghiệm tử thi đối với Lê Thị V. Đồng thời tiến hành trưng cầu giám định cơ chế và chiều hướng hình thành dấu vết va chạm trên xe ô tô BKS: 29C- 805.67, chiếc xe đạp và trưng cầu pháp y tử thi xác định nguyên nhân tử vong của bà Lê Thị V.

* Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định: Mặt đường rải nhựa nhẵn phẳng, va chạm giữa xe ôtô BKS: 29C- 805.67 và xe đạp, xảy ra trong khu vực nút giao vòng xuyến gầm cầu vượt Kim C. Các đường tiếp giáp vòng xuyến như sau: Đường vành đai khu Công nghiệp Thăng L rộng 15m (bên phải đường, trước khi vào khu vực vòng xuyến có vạch sơn kẻ ngang dành cho người đi bộ và biển báo "Cấm rẽ trái" và biển báo nguy hiểm "Đi chậm, chú ý quan sát"); lối rẽ đi đường Võ Văn K rộng 13,2m và khoảng cách từ mép vòng xuyến đến mép bê tông bồn cỏ gầm cầu vượt Kim C rộng 16,4m. Lấy mép đường bên phải, chiều Cổng A Khu Công nghiệp Thăng L đi đường Võ Văn K làm chuẩn xác định:

- Xe ôtô BKS: 29C- 805.67 đỗ trên đường nhựa, đầu xe hướng đi đường Võ Văn K. Trục bánh trước bên phải cách mép đường bên phải 9,8m và cách cột mốc H4/1 là 1,1m. Trục bánh sau bên phải cách mép đường bên phải 3,55m. Xe ôtô BKS: 29C- 805.67 để lại vết phanh kép hàng lốp bánh sau cùng bên trái trên đường KT (2,5x1,13)m. Đầu vết phanh cách mép đường bên phải 5,75m, cuối vết phanh trùng với mặt lăn lốp bánh sau cùng bên trái xe ôtô BKS: 29C- 805.67 (trên bề mặt mặt lăn lốp xe có bám dính máu và tổ chức cơ thể người). Trùng với vết phanh trên là vết máu KT (4,6x0,2)m, đầu vết máu cách mép đường bên phải 5,75m, cuối vết máu trùng với đầu nạn nhân Lê Thị V.

- Xe đạp đổ nghiêng bên phải và nằm dưới gầm xe ôtô BKS: 29C- 805.67. Trục bánh trước cách mép đường bên phải 3,55m. Trục bánh sau cách mép đường bên phải 4,4m. Xe đổ, để lại vết cầy KT dài 2,7m. Đầu vết cầy cách mép đường bên phải 5,35m, cuối vết cầy cách mép đường bên phải 4,45m và cách trục bánh trước xe đạp 2m. Nạn nhân Lê Thị V nằm úp trên đường, đầu bị biến dạng và tiếp giáp với mặt lăn hàng lốp bánh sau cùng bên trái xe ôtô BKS: 29C- 805.67. Đầu nạn nhân cách mép đường bên phải 6m, chân trái nạn nhân cách mép đường bên phải 4,6m.

* Kết quả giám định Pháp y tử thi Lê Thị V: Tại bản giám định pháp y số 5337/PC54-PY ngày 19/9/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội xác định:

- Khám ngoài: Tử thi nữ giới, cao 1m63, thể trạng trung bình. Quần áo nạn nhân mặc trước khi tử vong: Áo sơ mi dài tay màu xanh, toàn bộ áo có nhiều vết rách vải xơ, vải bị chun, nhăn dạng vò xé, dính chất bẩn màu vàng, vạt áo trước bên phải bị đứt rời. Quần dài tím than. Mặt trước ống quần phải trên gấu 30cm bị sờn và quệt bẩn trên diện (14x5)cm. Mặt trước ống quần trái tương ứng với vùng đùi và gối dính quệt bẩn trên diện (40x14)cm. Toàn bộ mặt sau ống quần trái dính quệt bẩn không rõ hình. Tử thi lạnh, hoan tử thi xuất hiện ở mặt sau cơ thể.

+ Đầu, mặt, cổ: Tóc dài ngang lưng. Từ sống mũi lên vùng đỉnh đầu có vết rách da nham nhở diện (17x15)cm, xung quanh bị xây sát trên diện (25x24)cm. Toàn bộ vùng mặt bị biến dạng hoàn toàn. Vỡ xương gò má hai bên. Toàn bộ vùng cổ bị xây sát tụ máu. Cột sống cổ không có tổn thương.

+ Ngực, bụng, lưng, mông, tay, chân: Toàn bộ vùng ngực, bụng và mạn sườn trái bị xây sát da tụ máu trên diện (50x40)cm. Có dấu hiệu gẫy xương ức và nhiều xương sườn hai bên. Vùng lưng từ bờ vai xuống bị xây sát da tụ máu trên diện (35x38)cm. Gãy nhiều đoạn xương cột sống và vỡ xương bả vai phải. Toàn bộ hai tay có nhiều vết xây sát da tụ máu. Xương khớp không có dấu hiệu tổn thương.

Mặt trước đùi trái trên gối 15cm có vết xây sát da tụ máu trên diện (10x8)cm. Mặt trước cẳng chân trái dưới gối 13cm có vết xây sát da trên diện (9x5)cm. Xương khớp bình thường.

- Khám trong: Đầu: Tương ứng với vết rách da vùng đỉnh, tổ chức dưới da bị tụ máu. Xương trán và xương sọ vùng đỉnh bị vỡ nhiều mảnh trên diện (13x14)cm. Vỡ xương nền sọ, tổ chức não dập nát thoát ra ngoài.

Kết luận: Qua giám định tử thi thấy: Quần áo nạn nhân có nhiều vết rách vải xơ, vải bị chun và nhăn dạng vò xé, dính quệt bẩn không rõ hình. Trên cơ thể có nhiều vết xây sát da tụ máu tập trung ở mặt trước cơ thể. Gãy xương ức và nhiều xương sườn hai bên. Gãy nhiều đoạn xương cột sống, vỡ xương bả vai phải. Từ sống mũi lên vùng đỉnh đầu có vết rách da nham nhở, tổ chức dưới da tương ứng bị tụ máu. Xương sọ bị vỡ nhiều mảnh. Tổ chức não dập nát thoát da ngoài.

Nguyên nhân chết: Đa chấn thương, dập thoát não. Thương tích trên cơ thể nạn nhân phù hợp với việc bị đè ép bởi vật tày cứng có diện qua vùng đầu và ngực gây nên.

* Kết quả khám nghiệm phương tiện xe ôtô BKS: 29C-805.67 và xe đạp liên quan xác định:

- Đối với xe ôtô BKS: 29C-805.67: Mặt ngoài chắn đã có vết trượt xước sơn rải rác trên diện (15,5x3) cm. Mặt ngoài phía dưới thanh kim loại chắn đà trước có vết trượt sạch bụi đất diện (27x4,5)cm. Mặt ngoài phía dưới ống tu-bô két gió có vế trượt sạch bụi đất lộ sơn màu đỏ KT (7x3)cm. Mặt ngoài phía dưới đáy bình tắc-te có vết trượt sạch bụi đất lộ sơn màu xanh KT (1,5x0,5)cm. Mặt ngoài phía trước và phía dưới hai ốc quang nhíp phía trước bên trái trục bánh trước có vết trượt sạch bụi đất diện (2,8x2,3)cm và diện (10x9)cm. Mặt ngoài phía trước dưới trục hàng bánh thứ hai tính từ trước về sau có rải rác các vết trượt sạch trục đất lộ sơn màu xanh diện (43x8,5)cm. Mặt ngoài phía dưới bình hơi phía dưới bên trái có vết trượt sạch bụi đất trên diện (19x9)cm. Mặt ngoài phía dưới trục hàng bánh thứ ba tính từ trước về sau có vết trượt sạch bụi đất trên diện (15,5x13,5)cm. Mặt ngoài phía trong lốp trong bánh sau cuối cùng bên trái có vết trượt sạch bụi đất diện (53x10)cm, điểm gần nhất cách số “1” của hàng chữ số “1200R20” 8cm.

- Đối với xe đạp hiệu Fushi, màu xanh liên quan: Tay lái bên trái bị gãy rời. Đầu tay nắm tay lái có vết trượt xước nhựa, mặt vết mài miết, bám dính các sợi ni-lông màu đỏ. Giỏ xe trong tình trạng vỡ nhựa. Mặt ngoài góc sau bên trái có vết trượt xước nhựa. Tương ứng với dấu vết trên cách 2cm có vết vỡ nhựa trên diện (8x4,5)cm và vết trượt nhựa dọc theo giỏ xe trên diện (14x3)cm. Tại mặt ngoài góc trước bê trái giỏ xe có vết trượt xước, mài miết, mặt vết bám dính sợi màu xanh và màu tím.

Mặt ngoài đầu tay nắm tay lái bên phải, đầu tay phanh bên phải, mặt ngoài đũa xe bên phải bánh trước, đầu bàn đạp phải, yên xe bên phải, mặt ngoài thanh dọc nối với giá đèo hàng, đầu trục bánh sau bên phải có vết trượt xước nhựa, xước kim loại.

Các dấu vết trên còn mới.

* Kết quả kiểm tra kỹ thuật an toàn phương tiện liên quan: Kỹ thuật an toàn xe đạp: Do xe bị cong vặn biến dạng nên không kiểm tra được các thiết bị liên quan đến kỹ thuật an toàn.

Kỹ thuật an toàn xe ôtô BKS: 29C- 805.67: Phanh tay tác dụng. Phanh chân: Cho xe ôtô chạy với tốc độ 35Km/h, đạp phanh chân cấp tốc, xe dừng, để lại vết phanh bánh trước bên phải và bên trái KT (5,5x0,2)m và vết phanh hàng bánh sau cùng bên phải KT (5x0,55)m. Vết phanh hàng bánh sau cùng bên trái KT (5,2x0,55)m. Kết quả xác minh tốc độ xe ôtô BKS 29C- 805.67 qua hệ thống dữ liệu GPS tại thời điểm tai nạn: 40Km/h, 39Km/h, 29Km/h, 25Km/h, 10Km/h, 0Km/m.

* Kết quả giám định dấu vết phương tiện: Tại bản kết luận giám định số 4429/C54(P3) ngày 29/9/2017 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận:

+ Dấu vết trượt mất bụi đất, dính chất màu đen hình tròn (dạng nhựa) ở mặt dưới bình tắc te, phía dưới gầm đầu xe ôtô BKS: 29C- 805.67 có chiều từ dưới lên trên, trước về sau, phù hợp với dấu vết trượt mất nhựa màu đen ở mặt ngoài đầu ốp nhựa tay lái bên phải xe đạp gửi giám định (khi xe đạp đã đổ nằm nghiêng bên phải xuống đường và tay lái bên phải bị xoay từ phải sang bên trái xe). Dấu vết va chạm ở xe đạp tại vị trí này có chiều từ trước về sau.

+ Dấu vết trượt mất bụi đất, in hình những đường kẻ song song (dạng vân vải) ở mặt dưới thanh kim loại phía dưới chắn đà trước xe ôtô BKS: 29C- 805.67 có chiều từ dưới lên trên, trước về sau. Dấu vết này có đặc điểm của dấu vết hình thành do va chạm với quần áo hay vải tạo ra.

+ Dấu vết trượt xước, dính chất màu trắng (dạng bột đá) ở mặt ngoài phía sau bên phải yên xe, mặt ngoài đầu bàn đạp bên phải, mặt ngoài phía trên thanh dọc bên phải giá đèo hàng sau, mặt ngoài đầu trục bên phải bánh sau xe đạp gửi giám định, có chiều từ trước về sau, phải sang trái. Các dấu vết này có đặc điểm giống đặc điểm của dấu vết hình thành do va chạm với mặt đường khi xe đạp đổ nằm nghiêng bên phải và trượt trên mặt đường. Tại cơ quan điều tra, Vũ Minh C khai nhận: Khoảng 17 giờ 15 phút ngày 28/8/2017, Vũ Minh C điều khiển xe ôtô BKS: 29C-805.69 lưu thông trên đường vành đai khu Công nghiệp Thăng L, chiều Cổng A Khu Công nghiệp Thăng L đi cầu vượt Kim C. Khi đến khu vực đường giao nhau có báo hiệu vòng xuyến gầm cầu vượt Kim C, Vũ Minh C điều khiển xe ôtô chuyển hướng rẽ phải ra đường Võ Văn K để đi về phía cầu Thăng L với vận tốc khoảng 30km/h đến 35km/h, do chủ quan không chú ý quan sát nên dẫn đến va chạm với xe đạp do bà Lê Thị V điều khiển đi phía trước cùng chiều gây tai nạn.

* Đối với phương tiện liên quan kết quả tra cứu xác định:

- Xe ôtô BKS: 29C- 805.67 đăng ký mang tên công ty TNHH vận tải Hưng M (Đ/c: Tổ dân phố Yên N, phường Liên M, quận Bắc Từ L, Hà Nội) do bà Đỗ Thị C làm giám đốc. Công ty TNHH vận tải Hưng M thuê Vũ Minh C lái xe theo hợp đồng lao động. Xe ôtô BKS: 29C- 805.67 tham gia bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ôtô, phần bảo hiểm xe các bên liên quan không yêu cầu cơ quan pháp luật giải quyết. Xét thấy, xe ôtô BKS: 29C- 805.67 có đầy đủ giấy tờ theo quy định và là tài sản hợp pháp của công ty TNHH vận tải Hưng M. Do vậy, ngày 22/9/2017, cơ quan điều tra, Công an huyện A đã quyết định xử lý vật chứng, trao trả xe ô tô BKS: 29C- 805.67 cho công ty TNHH vận tải Hưng M. Đối với chiếc xe đạp nữ, màu xanh, quá trình điều tra xác định chiếc xe đạp là tài sản hợp pháp của bà Lê Thị V. Do vậy, ngày 22/9/2017, cơ quan điều tra - Công an huyện A đã quyết định xử lý vật chứng, trao trả chiếc xe trên cho đại diện chủ sở hữu.

* Về phần dân sự: Vũ Minh C và gia đình cùng công ty TNHH vận tải Hưng M đã bồi thường cho gia đình nạn nhân Lê Thị V số tiền 170.000.000đ (Một trăm bảy mươi triệu đồng). Gia đình nạn nhân đã nhận đủ tiền và không còn yêu cầu gì về phần bồi thường, có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối cho Vũ Minh C.

Tại cáo trạng số 199/VKS-HS ngày 22 tháng 11 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện A, Thành phố Hà Nội đã truy tố Vũ Minh C về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất của vụ án, một lần nữa khẳng định việc truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật như cáo trạng đã nêu là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Vũ Minh C với mức án từ 08 đến 10 tháng tù. Cấm bị cáo hành nghề lái xe ô tô từ 01năm.

Về phần dân sự: Các bên đã giải quyết xong nên không đặt ra để xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

{1} Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện A, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện A, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các quyết định, hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

{2}Tại phiên toà, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Do đó xác định được: Khoảng 17 giờ 10 phút ngày 28/8/2017, Vũ Minh C điều khiển xe ôtô tải BKS: 29C- 805.67 lưu thông trên đường vành đai khu Công nghiệp Thăng L, chiều Cổng A Khu Công nghiệp Thăng Lđi cầu vượt Kim C. Khi đi đến khu vực đường giao nhau có báo hiệu vòng xuyến gầm cầu vượt Kim C, Vũ Minh C điều khiển xe ôtô chuyển hướng rẽ phải ra đường Võ Văn K không chú ý quan sát, dẫn đến đâm vào người và xe đạp do bà Lê Thị V điều khiển lưu thông phía trước cùng chiều. Hậu quả làm cho bà Lê Thị V bị tử vong. Căn cứ vào lời khai của bị cáo tại phiên tòa và kết quả khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường, kết luận giám định, kết quả khám nghiệm tử thi, kết quả khám nghiệm các dấu vết phương tiện liên quan, cùng với các tài liệu điều tra thu thập được cho thấy có đủ cơ sở để xác định: Lỗi trong vụ tai nạn là do Vũ Minh C điều khiển xe ôtô chuyển hướng không chú ý quan sát dẫn đến đâm vào người và xe đạp do bà Lê Thị V điều khiển đi phía trước cùng chiều gây tai nạn, vi phạm Khoản 2 Điều 15 Luật Giao thông đường bộ. Bà Lê Thị V đi đúng phần đường, không có lỗi trong vụ tai nạn. Do đó, đủ cơ sở kết luận bị cáo Vũ Minh C đã phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Tội và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự. Điều khoản này quy định hình phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì chẳng những đã xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng, mà còn xâm hại đến tính mạng và gây thiệt hại về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Do đó, cần phải xử lý bị cáo nghiêm minh trước pháp luật mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải; sau khi phạm tội bị cáo ra đầu thú; bị cáo đã tích cực tác động gia đình bị cáo bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân để khắc phục hậu quả; bố đẻ bị cáo có thời gian tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế sau ngày 30/4/1975; tại phiên tòa đại diện gia đình nạn nhân có lời khai đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đó là những tình tiết để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, nhưng vẫn cần cách ly bị cáo ra khởi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có điều kiện giáo dục bị cáo.

{3}Về hình phạt bổ sung: trong trường hợp cụ thể này cần cấm bị cáo hành nghề lái xe ô tô trong một thời gian nhất định kể từ khi bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.

{4} Về phần bồi thường dân sự: Trong quá trình điều tra, gia đình bị cáo và công ty TNHH vận tải Hưng Minh đã bồi thường cho gia đình nạn nhân tổng số tiền 170.000.000 đồng. Tại phiên tòa, đại diện gia đình nạn nhân có lời khai không còn yêu cầu gì về phần bồi thường dân sự nên không phải đặt ra để giải quyết.

{5} Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật sung công quỹ nhà nước.

{6} Về quyền kháng cáo: Những người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 234 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Vũ Minh C phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Vũ Minh C 10 (Mười ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28 tháng 8 năm 2017.

- Căn cứ khoản 5 Điều 202 Bộ luật Hình sự: Cấm Vũ Minh C hành nghề lái xe ô tô trong thời hạn 01 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

- Căn cứ các Điều 99, Điều 231, Điều 234 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

+ Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước.

Án xử công khai, sơ thẩm. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn dân sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ. Bị đơn dân sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chỉ có quyền kháng cáo về phần bồi thường dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

367
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 188/2017/HSST ngày 26/12/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:188/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về