Bản án 187/2021/HNGĐ-ST ngày 28/05/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A - TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 187/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 28 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A mở xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 126/2021/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 4 năm 2021 về việc “Tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 267/2021/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 4 năm 2021 và Quyết đinh hoãn phiên tòa số 307/2021/QĐHPT-HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thu T, sinh năm: 1995; nơi cư trú: Khóm C, phường C, thành phố C, An Giang.

Bị đơn: Ông Phạm Công T, sinh năm: 1991; nơi cư trú: Ấp A, xã K, huyện A, tỉnh An Giang.

(Bà T có đơn xin vắng mặt; ông T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu kèm trong hồ sơ vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu T trình bày:

Về hôn nhân: Bà và ông T do tự tìm hiểu, được hai bên gia đình đồng ý tiến hành tổ chức lễ cưới năm 2010 đăng ký kết hôn trễ hạn số 66 ngày 12/06/2015 tại Ủy ban nhân dân xã K. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, đến khoảng năm 2013 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông T thường xuyên uống rượu không chăm lo cho cuộc sống gia đình, mặc dù bà đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng ông T không thay đổi, mâu thuẫn kéo dài đến năm 2018 thì ông bà ly thân, gia đình hai bên đã hàn gắn nhưng không thành. Bà quay về nhà mẹ ruột ở thành phố C sống cho đến nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn có quay về chung sống cũng không được hạnh phúc nên bà yêu cầu ly hôn với ông T.

Về con chung: Có 02 con chung tên Phạm Thị Trang H, sinh ngày 17/11/2011; Phạm Huỳnh Nghi L, sinh ngày 14/6/2015. Hiện cháu H do ông T cùng gia đình nuôi dưỡng, cháu L do bà chăm sóc. Khi ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu L và đồng ý để ông T cùng gia đình tiếp tục nuôi dưỡng cháu H. Bà không cấp dưỡng nuôi con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về tài liệu chứng cứ: Các tài liệu chứng cứ các đương sự giao nộp đã được thẩm tra và công khai trong quá trình hòa giải, các đương sự không có ý kiến gì về các tài liệu chứng cứ và tại phiên tòa không ai giao nộp bổ sung thêm tài liệu chứng cứ khác.

Trong quá trình thụ lý, hòa giải Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt cho ông Phạm Công T theo quy định nhưng ông T không có mặt theo các thông báo của Tòa án. Tòa án tiến hành xác minh nơi cư trú và tình trạng hôn nhân của bà T và ông T để giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Qua chứng cứ Tòa án thu thập được: Xác định ông T có nơi cư trú tại ấp A, xã K, huyện A, tỉnh An Giang. Đồng thời, mâu thuẫn vợ chồng giữa bà T và ông T đúng như lời trình bày của bà T.

Tại phiên tòa, bà T vắng mặt, tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án bà T có đơn xin xét xử vắng mặt. Riêng ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bà theo thủ tục chung.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong ghi lời khai, thủ tục xét xử vắng mặt, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng… là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa, thời hạn xét xử cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về nội dung: Yêu cầu của nguyên đơn có căn cứ nên đề nghị chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị Thu T khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Phạm Công T. Đồng thời, ông T cư trú trên địa bàn huyện A. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.

Về sự vắng mặt của đương sự: Bà T vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Ông T được triệu tập hợp lệ lần 2 mà vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông bà theo Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa bà T và ôn T là do tự tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K vào năm 2015 nên phát sinh quyền và nghĩa vụ được xem là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Do đó, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên thụ lý, giải quyết theo Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2.1] Xét yêu cầu của bà T xin ly hôn với ông T, Hội đồng xét xử xét thấy bà T và ông T đã không chung sống với nhau từ cuối năm 2018 đến nay, bản thân bà T thừa nhận nhiều lần được gia đình hai bên hàn gắn nhưng bà không thể tiếp tục chung sống với ông T, nhận thấy không có khả năng quay về chung sống nên bà ly hôn. Nguyên nhân bà trình bày ông phù hợp với nội dung xác minh của Tòa án tại địa phương. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu xin ly hôn của bà T là có căn cứ, được chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Trong quá trình chung sống có 02 con chung tên Phạm Thị Trang H, sinh ngày 17/11/2011; Phạm Huỳnh Nghi L, sinh ngày 14/6/2015, lời khai trên phù hợp với bản trích lục giấy khai sinh số 262 ngày 19/7/2016 và bản sao giấy khai sinh của Ủy ban nhân dân xã K. Hiện cháu H được ông T cùng gia đình nuôi dưỡng, cháu L hiện sống với bà T.

Xét yêu cầu về con chung sau khi ly hôn của bà Trang được nuôi cháu L, đồng ý để cháu H cho ông T cùng gia đình chăm sóc Hội đồng xét thấy: Từ khi ly thân đến nay cháu H được ông T cùng gia đình chăm sóc, được đi học và phát triển tốt. Đồng thời, cháu H có nguyện vọng được tiếp tục sống với ông T. Cháu L cũng sống với bà T từ khi ly thân đến nay, tình cảm mẹ con đã thật sự gắn bó, Hội đồng xét xử xét thấy không nên việc thay đổi chỗ ở, hoàn cảnh sống đột ngột sẽ ảnh hưởng đến tâm sinh lý và sự phát triển của các cháu sau này.

Từ những căn cứ nêu trên, xét thấy cần tiếp tục giao cháu H cho ông T chăm sóc, nuôi dưỡng; bà T được tiếp tục nuôi cháu L.

Hội đồng xét xử cũng giải thích cho bà T biết: Theo quy định của pháp luật, khi ly hôn bên không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy bà không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng công nhận sự tự nguyện của bà. Do không ghi nhận được ý kiến của ông T nên không xem xét yêu cầu cấp dưỡng. Khi nào ông T có yêu cầu thì sẽ giải quyết bằng một vụ kiện khác.

Hội đồng xét xử giải thích cho các đương sự biết: Bà T và ông T cùng các thành viên gia đình không được cản trở nhau trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Bà T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Bà T là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm. Ông T không phải chịu án phí nào khác.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147, các Điều 227, 228, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ Điều 27, Nghị quyết số 326/2016 UBTVQH 14 ngày 30/12/2016;

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thu Trang.

1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thu T được ly hôn với ông Phạm Công T.

Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 66 ngày 12/6/2015 của Ủy ban nhân dân xã K, huyện A mang tên ông Phạm Công T và bà Nguyễn Thị Thu T không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: Bà Nguyễn Thị Thu T được tiếp tục nuôi cháu Phạm Huỳnh Nghi L, sinh ngày 14/6/2015; ông Phạm Công T được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Phạm Thị Trang H, sinh ngày 17/11/2011. Công nhận tự nguyện của bà T không yêu cầu ông Trung cấp dưỡng nuôi con.

Bà T và ông T cùng các thành viên gia đình không được cản trở nhau trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

3. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thu Tg phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được chuyển từ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0007057 ngày 06/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A (bà T nộp đủ).

4. Về quyền kháng cáo: Bà T, ông T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 187/2021/HNGĐ-ST ngày 28/05/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

Số hiệu:187/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về