Bản án 178/2019/HNGĐ-ST ngày 07/05/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 178/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 07 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện A mở phiên toà xét sử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 98/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2019 về việc “Tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 173/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Q, sinh năm 1997.

Cư trú: Ấp V, xã V, huyện An Phú, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Ông Lê Văn C, sinh năm 1993,

Cư trú: Ấp A, thị trấn A, huyện A, tỉnh An Giang.

(Bà Q có mặt; ông C vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn và bản tự khai bà Huỳnh Thị Q, trình bày: Hôn nhân giữa bà với ông Trần Văn C là do cha mẹ định đoạt, tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn A, huyện A vào ngày 11/12/2015. Nguyên nhân mâu thuẩn do bà và ông C không hợp nhau, bất đồng quan điểm. Bà và ông C ly thân từ ngày 29/10/2017 cho đến nay, trong thời gian ly thân gia đình hai bên không hàn gắn. Nay bà xin ly hôn với ông Lê Văn C.

Về con chung: Có 01 con chung tên Lê Công D, sinh ngày 21/3/2016, hiện cháu D đang do ông C trực tiếp nuôi dạy. Khi ly hôn, bà yêu cầu nuôi con chung và không yêu cầu ông C cấp dưỡng.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chứng cứ bà Q cung cấp cho Tòa án được công bố trong phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ gồm: Bản chính giấy chứng nhận kết hôn; bản sao giấy khai sinh; bản sao sổ hộ khẩu gia đình; bản sao chứng minh nhân dân.

Trong vụ án này, Tòa án ra thông báo phiên hòa giải, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nhưng ông Lê Văn C vắng mặt, nên không thể tiến hành hòa giải được.

Tại biên bản ghi nhận sự vắng mặt của đương sự và không tiến hành hòa giải được thì bà Q vẫn giữ yêu cầu xin ly hôn; bà xác định rút lại yêu cầu nuôi con chung, đồng ý để cháu D cho ông C nuôi dạy và xin không cấp dưỡng nuôi con chung, xác định tài sản chung, nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án.

Theo biên bản lấy lời khai đương sự ngày 08/4/2019, ông Lê Văn C trình bày: Ông có nhận được các thông báo của Tòa án nhưng không đến được do đi buôn bán. Ông và bà Q đã ly thân từ tháng 10/2017 cho đến nay. Bà Q yêu cầu xin ly hôn thì ông xác định đồng ý ly hôn với bà Q.

Về con chung: có 01 con chung tên Lê Công D, sinh ngày 21/3/2016, hiện cháu D do ông trực tiếp nuôi dạy. Khi ly hôn, ông xin được tiếp tục nuôi dạy cháu D và không yêu cầu bà Q cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, bà Q vẫn giữ nguyên ý kiến về việc xin ly hôn với ông Cường; đồng ý để cháu D cho ông C nuôi dạy và xin không cấp dưỡng nuôi con chung; xác định tài sản chung, nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông C vắng mặt nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt ông C theo Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Quan điểm Kiểm sát viên về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong việc ghi lời khai, hòa giải, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng… là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Về nội dung: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có căn cứ nên đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Huỳnh Thị Q và ông Lê Văn C do cha mẹ định đoạt tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn A, huyện A, tỉnh An Giang ngày 11/12/2015, là hôn nhân hợp pháp. Ông Lê Văn C cư trú trên địa bàn huyện A, tỉnh An Giang nên yêu cầu xin ly hôn của bà Q được tòa án thụ lý, giải quyết là đúng quy định tại Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình, Điều 28, 35, 39 của Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét hôn nhân giữa bà Huỳnh Thị Q và ông Lê Văn C là do cha mẹ định đoạt, sống chung không bao lâu thì phát sinh mâu thuẫn, không thể hàn gắn. Bà Q và ông C đã ly thân từ tháng 10/2017 cho đến nay, việc bà Q yêu cầu xin ly hôn thì ông C cũng đồng ý, do đó Hội đồng xét xử thấy nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Huỳnh Thị Q.

[3] Về con chung: Xét thấy cháu Lê Công D từ trước đến nay đều sống chung với ông C, tình cảm của ông C và cháu D đã thật sự gắng bó. Bà Q cũng đồng ý để cháu D cho ông C nuôi dạy, điều này phù hợp với nguyện vọng của ông C là được tiếp tục nuôi con chung. Hội đồng xét xử đồng ý để ông C tiếp tục nuôi dạy cháu D.

Về cấp dưỡng: Do ông C không yêu cầu nên công nhận sự tự nguyện của ông C về việc không yêu cầu bà Q cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà Q và ông C đều xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết, nếu sau này các đương sự có yêu cầu thì sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.

[5] Về án phí: Bà Q phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Ông C không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 147, 227, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm b, khoản 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Xử Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị Q.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Huỳnh Thị Q được ly hôn với ông Lê Văn C.

Giấy chứng nhận kết hôn số 110 ngày 11/12/2015 của Ủy ban nhân dân thị trấn A không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Về con chung: Ông Lê Văn C được nuôi dạy con chung tên Lê Công D, sinh ngày 21/3/2016. Công nhận sự tự nguyện của ông C về việc không yêu cầu bà Q cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông C cùng các thành viên gia đình không được cản trở bà Q trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con dựa trên các căn cứ theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Bà Huỳnh Thị Q phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm. Số tiền này được chuyển từ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) mà bà Q đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A theo biên lai thu số 0011162 ngày 11/3/2019 (bà Q đã nộp đủ).

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (07/3/2019) các bên có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Thời hạn kháng cáo của các đương sự vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú.

(Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 178/2019/HNGĐ-ST ngày 07/05/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

Số hiệu:178/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về