Bản án 187/2018/HS-PT ngày 27/07/2018 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 187/2018/HS-PT NGÀY 27/07/2018 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI 

Vào ngày 27 tháng 7 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng  xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 150/2018/TLPT-HS ngày 21 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo: Nguyễn Thành N về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2018/HS-ST ngày 22/01/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Thành N, (tên gọi khác; N khỉ), sinh ngày 23/12/1999 tại Gia Lai( đến ngày phạm tội bị cáo 17 năm 01 tháng tuổi); Nơi ĐKHKKTT và chỗ ở: 275/12 Đường H, tổ 11, phường HT, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: hớt tóc; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc B, sinh năm 1968 và bà Võ Thị Ng, sinh năm 1969; tiền án: không; tiền sự: không; Bị cáo ra đầu thú và bị bắt ngày 24/01/2017, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T20 - Công an tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Người bào chữa: Ông Tống Đức N1, Luật sư Văn phòng luật sư H thuộc Đoàn luật sư tỉnh Gia Lai, bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thành N. Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Thành N: Ông Nguyễn Ngọc B, sinh năm 1968 và bà Võ Thị Ng, sinh năm 1969. ông B, bà Ng cũng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Có mặt. Trú tại: 275/12 Đường H, tổ 11, phường HT, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

- Bị hại: Phạm Đức H1, sinh năm 1986 (đã chết);

- Người đại diện hợp pháp của bị hại Phạm Đức H1: Ông Phạm H1, sinh năm 1958, bà Đoàn Thị H2, sinh năm 1960, chị Trần Thị Thu H3, sinh năm 1986. Là bố, mẹ và vợ của bị hại.

Trú tại: Tố10, phường HT, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

- Người làm chứng:

1. Đỗ Trung Ng1, sinh năm 1983.

Trú tại: 243/1 Đường H, tổ 10, phường HT, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

2. Lê Khả D, sinh năm 1987.

Trú tại: 98 đường L, phường P1, thành phố P, Gia Lai.

3. Phạm Đức Th, sinh năm 1982.

Trú tại: tổ 18, phường I, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

4. Nguyễn Dư C, sinh năm 1987.

Trú tại: tổ 13, phường HT, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

5. Nguyễn Quốc H4, sinh năm 1985.

Trú tại: tổ 11, phường HT, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

6. Nguyễn Đức H5, sinh năm 1995.

Trú tại: tổ 2, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

7. Lưu Văn S, sinh năm 1988.

Trú tại: Tổ 7, phường Đ, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

8. Trần Thành Đ, sinh năm 1989.

Trú tại: 28/01 Trần Hưng Đạo, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

9. Phạm Hoài S1, sinh năm 1995.

Trú tại: tổ 10, phường HT, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

10. Huỳnh Nguyễn Quang T, sinh năm 1998.

Trú tại: tổ 11, phường HT, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

11. Mạnh Hữu D1, sinh năm 2001.

Trú tại: hẻm 333 đường LTT, phường Y, thành phố P, Gia Lai.

12. Nguyễn Bá Th2, sinh năm 2001.

Người đại diện hợp pháp của Nguyễn Bá Th2: Chị Nguyễn Thị Thanh

Th3, sinh năm 1981.

Trú tại: 61A đường H, tổ 12, phường Y, thành phố P, Gia Lai.

13. Nguyễn Duy P, sinh năm 2000.

Người đại diện hợp pháp của Nguyễn Duy P: Anh Nguyễn Mạnh H6.

Vắng mặt. Tại phiên tòa có mặt bà Nguyễn Thị Kim H7, sinh năm 1969, là cô ruột của Nguyễn Duy P.

Trú tại: 291/12/7 Đường H, tổ 11, phượng HT, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

14. Phan Ngọc T, sinh năm 1996.

Trú tại: tổ 11, phường HT, thành phố P, Gia Lai.

15. Phạm Bắc B3, sinh năm 1992.

Trú tại: tổ 11, phường HT, thành phố P, Gia Lai.

16. Phan Thị Ng2, sinh năm 1953.

Trú tại: tổ 12, phường HT, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 23/01/2017, Mạnh Hữu D1, Nguyễn Bá Th2, Huỳnh Nguyễn Quang T, Nguyễn Duy B2, Nguyễn Thành N, Đỗ Văn H8 và Nguyễn Tấn T3 đến quán Bi da 369 thuộc hẻm 42 Đường L, Tổ 12, phường HT, thành phố P chơi bi da, nhưng chỉ T và D1 chơi, còn lại ngồi xem. Khi đi N mang theo 01 con dao (loại dao Lê) giấu ở lưng quần. Cùng lúc này, nhóm của Phạm Đức H1 gồm: Phạm Hoài S1, Đỗ Trung Ng1, Phạm Đức Th, Lưu Văn S, Nguyễn Quốc H4, Nguyễn Dư C, Nguyễn Đức H5, Lê Khả D và Trần Thành Đ đang chơi bi da ở bàn bên cạnh. Khi Phạm Đức H1 đi vệ sinh ngang qua nhìn thì N hỏi: “Sao anh nhìn em vậy?” H1 nói: “Tao thích thì tao nhìn” rồi đi về bàn mình tiếp tục chơi bi da. Khoảng 10 phút sau, N mượn xe mô tô Biển kiểm soát 81B1-327.73 của Nguyễn Bá Th2 để đi mua Mì quảng cho Nguyễn Quốc Tr (là anh trai N ở 275 Đường H, Tổ 11, phường HT, thành phố P) còn lại tiếp tục chơi bi da.

Đến khoảng 21 giờ 00 phút cùng ngày, do bạn rủ đi chơi nên Nguyễn Tấn T3 đi ra xe máy lấy mũ bảo hiểm đội lên đầu rồi đi vào lại quán bi da đứng nhìn nhóm Phạm Đức H1 chơi, thấy vậy H1 nói: “Mày nhìn cái gì mà nhìn?”, nghe vậy Tài nói: “Em thích thì em nhìn” nên giữa Tài và H1 xảy ra mâu thuẫn cãi nhau thì Nguyễn Quốc H4 cùng mọi người can ngăn và H4 đẩy Tài ra ngoài nói cH1ện. Lúc này, Nguyễn Duy B2 xông đến dùng tay đánh một cái trúng vào mặt H1 rồi bỏ chạy, H1 cầm ly thủy tinh ném theo nhưng không trúng, H1 cầm cây lau nhà đuổi theo B2. Thấy vậy, H4, C và Ng1 chạy theo can ngăn kéo H1 quay lại đứng trước quán bi da. Khi Nguyễn Duy B2 chạy được khoảng 300 mét thấy H1 không đuổi nữa nên đi bộ về thì gặp Nguyễn Thành N, N hỏi: “Sao vậy anh, sao không ở đó chơi mà đi về vậy?”, B2 nói: “Anh mới đánh thằng kia ở trên quán bi da ”, nghe vậy N nói: “Anh lên xe đi em chở lên đó xem sao ”, sau đó N chở B2 đi về nhà đưa mì quảng cho Tr rồi chở B2 đến quán bi da 369 thì thấy nhóm của Phạm Đức H1 đang đứng trước quán bi da; còn Nguyễn Tấn T3, Đỗ Văn H8, Huỳnh Nguyễn Quang T đứng trước quán cà phê Ri Ta cách nhóm H1 khoảng 25 mét. Đến nơi N và B2 xuống xe đi lại nói chuyện với anh H1 thì xảy ra xô xát đánh nhau, B2 dùng tay đánh trúng vào mặt H1 thì bị H1 cầm cây lau nhà đánh trúng tay B2. Lúc này, N lấy dao lê trong người cầm trên tay phải xông đến thì bị H1 cầm cây lau nhà đánh trúng vào vai phải, N liền cầm dao giơ lên đâm một nhát trúng vào cánh tay trái của H1, H1 lùi lại thì bị ngã xuống đường. Thấy N cầm dao đâm H1 (em trai mình) Phạm Đức Th liền chạy vào quán lấy cơ bi da ra cầm quơ qua, quơ lại mục đích để chống trả không cho N đánh H1 nữa thì Nguyễn Tấn T3 và Đỗ Văn H8 xông đến đánh nhau với nhóm của Th, Ng1 và C. Do thấy Th cầm cơ bi da quơ quơ và C cầm đá giơ lên thì N, Tài và Hiếu lùi lại không đánh nữa; còn B2 bỏ chạy lên đầu hẻm 42 rồi đi về nhà.

Khi nhóm Nguyễn Thành N lùi lại, Phạm Đức Th nói Lưu Văn S điều khiển xe máy Biển kiểm soát 81T2-5062 chở H1 chạy lên đường L, còn Th và Ng1 chạy bộ theo sau. Thấy nhóm H1 bỏ chạy, N cầm dao, Đỗ Văn H8 nhặt 01 khúc cây bên lề đường và Nguyễn Tấn T3 không cầm gì tiếp tục chạy đuổi theo nhóm H1 đánh. Khi Lưu Văn S chở Phạm Đức H1 đến đầu hẻm 42 Đường L, cùng lúc này Phan Ngọc Tấn điều khiển xe máy Biển kiểm soát: 81B1-403.94 chở Phạm Bắc B3 đi chơi về va quẹt vào xe của S làm 02 xe và người ngã xuống đường. H1 đứng dậy bỏ chạy đến trước tiệm mỹ phẩm Phú Trang số 34 đường L, thành phố P, tỉnh Gia Lai thì bị vấp ngã. Lúc này, Nguyễn Thành N đuổi đến đứng phía sau cầm dao lê đâm 01 nhát trúng vào lưng của Phạm Đức H1, H1 vùng dậy bỏ chạy vào nhà bà Phạm Thị Ch ở hẻm 14/2 Đường L, phường HT. Còn Đỗ Trung Ng1 chạy đến trước số nhà 30 Đường L, thành phố P thì bị Đỗ Văn H8 cầm cây, Nguyễn Tấn T3 không cầm gì và 02 thanh niên lạ mặt (chưa rõ họ tên, địa chỉ) cầm dao xông vào đánh, Hiếu cầm cây đánh 01 cái vào tay Ng1, Tài xông vào dùng tay chân đánh Ng1, còn 01 thanh niên lạ mặt cầm dao đâm 01 nhát vào vai bên phải và 01 nhát trúng vào lưng bên trái Ng1 gây thương tích. Thấy vậy, Phạm Bắc B chạy đến can ngăn đẩy Ng1 chạy về nhà. Khi sự việc đánh nhau xong, Lê Khả D đi bộ từ quán bi da về nhà H1 thì bị một đối tượng (chưa rõ họ tên, địa chỉ) dùng cây đánh một cái trúng vào đầu gây thương tích nhẹ.

Sau khi bị đâm, Phạm Đức H1 và Đỗ Trung Ng1 được gia đình đưa đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Gia Lai cấp cứu. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày thì Phạm Đức H1 chết; còn Đỗ Trung Ng1 được cấp cứu, điều trị đến ngày02/02/2017 thì xuất viện. Riêng Lê Khả D do thương tích nhẹ nên không đến Bệnh viện điều trị.

Sau khi đâm Phạm Đức H1 xong, Nguyễn Thành N chạy xuống hẻm 42 Đường L đi về, trên đường về thì gặp Nguyễn Duy P (bạn N - SN: 2000, trú tại Tổ 11, phường HT) đang chơi lô tô gần đó, N đưa dao lê nhờ P cất giữ rồi đi về nhà. Đến ngày 24/01/2017, nghe tin Phạm Đức H1 chết, Nguyễn Thành N và Nguyễn Duy B2 đã đến Công an phường HT, thành phố P, tỉnh Gia Lai đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

- Kết quả khám nghiệm hiện trường:

Hiện trường nơi xảy ra tại quán bi da 369 hẻm 42 Đường L thuộc Tổ 12, phường HT, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai đã tiến hành khám nghiệm hiện trường theo đúng quy định của pháp luật. Thu giữ tại hiện trường: các chất màu nâu nghi máu phục vụ cho công tác giám định.

-   Kết quả khám nghiệm tử thi:

+ Vùng hông bên trái có mảng xây xát da hình không xác định diện tích (5 x 4,5)cm, tâm vết các gai chậu trước bên trái 10cm, cách rốn 17cm về phía trên sau.

+ Tại 1/3 dưới mặt ngoài cánh tay trái có vết thương hình khe, đầu tù trên, đầu nhọn dưới kích thước (3,5 x l)cm, sâu 03cm, vết cách mõm khuỷu 7cm về phía trên trước, các lồi cầu ngoài 3cm về phía trên trước, bờ mép vết sắc gọn, chiều hướng từ dưới lên trên, từ trước ra sau. cẳng tay phải: từ mỡm Khuỷu đến bàn ngón tay có nhiều vết xây xát da không liên tục diện (40 X 8)cm bề mặt vết khô.

+ Tại gối trái có vết xây xát da hình không xác định bề mặt vết khô kích thước (10 X 3)cm. Tại vùng đầu gối chân phải có vết xây xát da hình không xác định bề mặt vết khô kích thước (13 X 7)cm. Tại mu bàn chân phải có vết xây xát da kích thước (4x1,5)cm bề mặt vét khô.

+ Vùng lưng trái có vết thương hình khe, bờ mép sắc gọn, hai đầu vết nhọn kích thước (2 X l)cm, chiều hướng vết từ trên xuống dưới, từ phải sang trái, từ sau ra trước, vết cách C7 - 19cm về phía dưới trái, cách gót chân trái l,23m về phía trên, cách ngang D6 - 3cm về phía trái, vết thương sâu thấu ngực,

Ngoài ra không phát hiện dấu vết thương tích gì khác.

+ Tiến hành kiểm tra áo thun màu đỏ (của nạn nhân H1) thấy: Tại vùng lưng áo bên trái có vết thủng áo hình khe kích thước (1,1 X 0,2)cm, xơ sợi vải hướng vào trong, vết cách cổ áo 24cm về phía dưới, cách đường chỉ nách áo bên trái 21cm về phía phải, cách lai áo 40cm về phía trên. Toàn bộ lưng áo dính chất màu nâu nghi máu còn ẩm ướt.

+ Tiến hành giải phẫu vùng ngực: Mô cơ dưới da không bầm máu, không tụ máu, thùy dưới phôi trái có vết thủng từ mặt sườn sau giáp mặt trong thùy dưới phổi trái, phổi trái xẹp có vết thủng kích thước (1,2 X 0,3)cm, sâu 4cm. Kiểm tra tim không thấy tổn thương, trong lồng ngực có khoảng 3000ml máu lỏng và máu đông cục.

+ Giải phẫu vết thương vùng lưng trái: Thấy rãnh vết thương xuyên qua gian sườn số 6 bên trái cung sau làm đứt động mạch gian sườn số 6.

Tại Bản kết luận Giám định pháp y về tử thi số 38/TTPY ngày 27/01/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Gia Lai kết luận anh Phạm Đức H1 chết do: “Mất máu cấp/vết thương thấu ngực, thủng phổi + đứt động mạch gian sườn 6 do vật sắc nhọn.

Tại Bản kết luận giám định số 67/KLGĐ ngày 14/02/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, kết luận:

+ Trên con dao mũi nhọn (loại dao lê) (Al): Không có máu;

+ Chất màu nâu ghi máu ghi thu tại hiện trường: Là máu người, nhóm máu o

+ Màu máu ghi thu máu của nạn nhân Phạm Đức H1: Nhóm máu o.

Ngày 07/9/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai đã tiến hành thực nghiệm điều tra dựng lại hiện trường cho các bị cáo Nguyễn Thành N, Nguyễn Duy B2, Đỗ Văn H8 và Nguyễn Tấn T3 cùng một số người liên quan tự diễn lại diễn biến vụ việc. Kết quả thực nghiệm điều tra cho thấy lời khai của các bị can phù hợp với diễn biến của vụ án, kết quả khám hiện trường, tử thi và lời khai của các nhân chứng.

Tại bản Cáo trạng số: 83/CTr -VKS - P2 ngày 06 tháng 12 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai đã Quyết định truy tố: Nguyễn Thành N về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 93 của Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2018/HSST ngày 22 tháng 01 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành N phạm tội “Giết người”

- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình sự 1999, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Thành N 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/01/2017.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn quyết định hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Duy B2, Đỗ Văn H8, Nguyễn Tấn T3; xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 25/01/2018 bị cáo Nguyễn Thành N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng hành vi phạm tội giết người của bị cáo mang tính chất côn đồ, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, mặc dù sau khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo có bồi thường thêm cho gia đình bị hại, nhưng số tiền không nhiều nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng sau khi phạm tội, bị cáo ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo, phạm tội chưa đến tuổi thành niên, sau khi xét xử sơ thẩm có động viên gia đình bồi thường thêm, mức hình phạt 15 năm tù đối với bị cáo là quá nghiêm khắc, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, Nguyễn Thành N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của N phù hợp với lời khai của các bị cáo khác và với các tài liệu chứng cứ được thu thập có tại hồ sơ vụ án; do đó, có đủ cơ sở kết luận: vào khoảng 21 giờ 20 phút ngày 23/01/2017, trong lúc đánh bi da tại quán bi da 369 thì Nguyễn Tấn T3 và Phạm Đức H1 xảy ra mâu thuẫn cãi nhau; Nguyễn Duy B2 xông vào dùng tay đánh 01 cái vào mặt Phạm Đức H1 rồi bỏ chạy, trên đường về gặp Nguyễn Thành N, B2 kể lại việc đánh nhau cho N nghe, N đã chở B2 quay lại quán bi da. Khi đến trước quán bi da, B2 tiếp tục xông vào đánh nhau với Phạm Đức H1 thì Nguyễn Thành N cầm dao lê dài 32,5cm, mũi nhọn dài 21cm xông vào đâm 01 nhát trúng khuỷu tay trái của Phạm Đức H1. Khi nhóm của H1 bỏ chạy lên đường L, Nguyễn Thành N tiếp tục cầm dao lê đuổi theo đâm 01 nhát trúng vào lưng trái của Phạm Đức H1, hậu quả Phạm Đức H1 chết do “Mất máu cấp/Vết thương thấu ngực, thủng phổi, đứt động mạch gian sườn do vật sắc nhọn”.

Với hành vi phạm tội như trên, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai kết tội bị cáo phạm tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Hành vi phạm tội của Nguyễn Thành N là đặc biệt nghiêm trọng, thể hiện sự côn đồ hung hãn, coi thường tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác. Trước đó, giữa bị cáo và bị hại Phạm Đức H1 chỉ xảy ra xích mích, nói qua nói lại nhưng sự việc đã kết thúc, bị cáo đã đi về nhà. Tuy nhiên, khi gặp Nguyễn Duy B2 và nghe nói đánh nhau thì N đã chở B2 quay lại quán bi da; khi quay lại quán bi da thì giữa Phạm Đức H1 và B2 có xảy ra đánh nhau, anh H1 không có hành vi tấn công bị cáo, nhưng bị cáo đã dùng dao nhọn là hung khí nguy hiểm lao vào đâm 01 nhát trúng tay của anh H1, khi anh H1 bỏ chạy thì bị cáo tiếp tục đuổi theo, khi anh H1 ngã xuống thì bị cáo đã dùng dao đâm tiếp 01 nhát vào vùng lưng của Phạm Đức H1, gây vết thương thấu ngực, thủng phổi. Hành vi phạm tội của Nguyễn Thành N phạm vào tình tiết định khung tăng nặng “Có tính chất côn đồ” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), có khung hình phạt từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình; do đó cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt thật nghiêm khắc.

[2]. Xét kháng cáo của bị cáo thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội và hậu quả do bị cáo gây ra; đồng thời, xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, sau khi phạm tội đã khai báo thành khẩn; tác động gia đình bồi thường cho gia đình người bị hại một phần thiệt hại; mặt khác khi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên Hội đồng xét xử sơ thẩm tuyên phạt bị cáo 15 năm tù về tội “Giết người”. Mức hình phạt trên là thỏa đáng, tương xứng với các hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra nên không nặng. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo có tác động gia đình bồi thường thêm cho gia đình bị hại, thể hiện thái độ thực sự ăn năn hối cải, nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cải tạo sớm trở về hòa nhập cộng đồng.

Do kháng cáo được chấp nhận, nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự;

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thành N; sửa bản án sơ thẩm.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt Nguyễn Thành N 14 ( mười bốn) năm tù về tội “Giết người”; thời hạn chấp hành hình phạt tính tù từ ngày 24/01/2017.

2. Bị cáo Nguyễn Thành N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Những phần của Bản án hình sự sơ thẩm số  06/2018/HSST ngày 07/12/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

370
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 187/2018/HS-PT ngày 27/07/2018 về tội giết người

Số hiệu:187/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về