Bản án 80/2018/HSPT ngày 24/01/2018 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 80/2018/HSPT NGÀY 24/01/2018 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI 

Ngày  24 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 594/2017/TLPT- HS ngày 03 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Thanh H do có kháng cáo của bà Ung Thị Thúy A là người đại diện hợp pháp của bị hại Trần Quang V đối với Bản án hình sự sơ thẩm 44/2017/HS-ST ngày 21tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang.

 Bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng nghị, bị kháng cáo:

Bị cáo Nguyễn Thanh H, sinh năm 1995.(tên gọi khác: B)  tại Tiền Giang; trú tại: Ấp T, xã 1, thị xã C, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hoàng M, sinh năm 1958 và bà Trần Thị Vân Đ, sinh năm 1971; hoàn cảnh gia đình: Anh chị em ruột có 02 người, bị cáo là con thứ 2 trong gia đình. Bị cáo chưa có vợ con; tiền sự, tiền án: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/01/2017, bị tạm giam từ ngày 25/01/2017 cho đến nay.

Ngoài ra, còn có bị cáo Lê Đức T2 đã được Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ xét xử về hành vi "Cố ý gây thương tích".

- Người tham gia tố tụng có kháng cáo:

Bị hại: Trần Quang V, sinh năm 1983. (đã chết)

Địa chỉ: Ấp T3, xã T1, thị xã C, tỉnh Tiền Giang

Đại diện theo pháp luật: Chị Ung Thị Thúy A, sinh năm 1988 – Vợ Vinh. Địa chỉ: Ấp T3, xã T1, thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thanh H biết cha mình là ông Nguyễn Hoàng M sinh 1958, ngụ Ấp T, xã 1, thị xã C, tỉnh Tiền Giang có mâu thuẩn với Lê Đức T2 nên H có ý định tìm T2 để hỏi chuyện nhưng chưa gặp. Biết việc H định tìm mình để nói chuyện, nên khoảng 11 giờ ngày 16/01/2017 biết ông M cùng với Nguyễn Thanh H đang đi mua dừa ở ấp B1, xã B2, huyện C, tỉnh Tiền Giang nên sau khi đã uống rượu vào Lê Đức T2 rủ và nhờ Ung Minh T4 sinh 1981, ngụ ấp T3, xã T1, thị xã C, tỉnh Tiền Giang chở đi tìm H. Minh T4 đồng ý và điều khiển xe chở Đức T2 đến ngã ba dốc cầu Thanh Hòa thì gặp H, tại đây Đức T2 xuống xe hỏi H “Mày kiếm tao làm gì mà hổm nay kiếm hoài”, H trả lời là “không có” thì hai bên cự cải rồi bỏ đi. Ung Minh T4 chở Đức T2 về quán cà phê Thanh Thảo, Minh T4 vào quán uống cà phê còn Đức T2 chạy xe về nhà lấy con dao tự chế giấu trong người rồi quay trở lại quán kêu Minh T4 ra chở đi tìm H tiếp. Minh T4 điều khiển xe chở Đức T2 đi khoảng 150m thì gặp được H, Đức T2 xuống xe lấy con dao ra để vào ngực H nói “Mầy anh em không, sao không chịu giải hòa”, H có lời xin lỗi đồng thời lợi dụng sự sơhở của Đức T2 đã giật lấy con dao trên tay Đức T2 rồi quơ chém lại, Đức T2 bỏchạy lên xe cho Minh T4 chở về, đến quán bi da của Trần Quang V sinh 1983, ngụ ấp 5, xã L, huyện G, tỉnh Bến Tre tạm trú tại ấp T3, xã T1, thị xã C, tỉnh Tiền Giang (V là em rễ của Ung Minh T4). Lúc này tại quán có mặt Ung Minh T5 sinh 1984, Nguyễn Thành T6 sinh 1994 và Ung Thị Thúy A sinh 1988 (vợ V) cùng ngụấp T3, xã T1, thị xã C, tỉnh Tiền Giang, thì Đức T2 nói với những người có mặt làT2 vừa bị H chém nên nhờ tất cả đến nhà H để đánh H trả thù. Đức T2 lấy 01 câycơ bi da của V bẻ ra làm hai đoạn cầm trên tay rồi điều khiển xe chạy trước đến nhà H, những người còn lại chạy đến sau, khi đến thấy nhà H đóng cửa thì Đức T2 lấy hai đoạn cơ bi da ra đưa cho T5 01 đoạn đầu, Đức T2 giữ lại đoạn gốc rồi đập cửa nhà của H còn những người cùng đi với Đức T2 thì đứng bên ngoài và tự chuẩn bị hung khí như: Minh T4 lượm một đoạn cây tre dài khoảng 01 m cầm trên tay,Thành T6 cũng lượm 01 đoạn cây tre dài khoảng hơn 02 m cầm trên tay. Cùng lúc với Minh T4 chở Đức T2 về quán của V thì H chở dừa về nhà xuống dừa, sau đó H tiếp tục đi chở dừa chuyến tiếp theo, H lấy con dao giật được của Đức T2 vắt theo máng trên cổ xe mô tô có thùng lôi. Khi về gần đến nhà thì ông M cầm trên tay con dao mà H lấy được của Đức T2, H cầm trên tay con dao Thái Lan dùng để sử dụng cắt mít hằng ngày. Lúc này ông Nguyễn Thành Nsinh 1970 (cha của Thành T6) nghe tin Thành T6 đi đánh nhau nên ông liền chạy đến nhà H, khi ông đến thì gặp nhóm của Đức T2 cầm hung khí đứng quanh nhà ông M, còn ông Nguyễn Hoàng M và H đang trên đường vô nhà thấy vậy ông mới nói với ông M và H “Chuyện gì đâu còn có đó, hai bên bỏ hung khí xuống hết đi”, thì tất cả nhóm của Đức T2 và ông M đều bỏ hung khí xuống chỉ còn H không bỏ mà vẫn cầm con dao trên tay. Khi ông M cặp cổ ông N rủ vào nhà uống nước trà nói chuyện, hai người đi được khoảng 15m thì Đức T2 nhặt con dao mà ông M vừa bỏ xuống cầm trên tay xong vào chém vào đầu H nhiều cái nhưng chỉ trúng 01 cái trên vành lỗ tai trái gây thương tích, thì hai bên xảy ra đánh nhau, Minh T4 và Thành T6 dùng cây tre đánh vào mong ông M mỗi người 01 cái rồi bỏ chạy ra. Minh T5 và N thấy đánh nhau cũng bỏ chạy, riêng V đi từ ngoài vào gặp T5, T5 kéo trở ra nhưng V5 cố tình đi vào, khi đến chỗ H, V lượm một đoạn cây cơ cầm trên tay đánh H một cái vào vùng hong trái thì bị H dùng dao đâm hai nhát vào ngực trái và nách phải, V té xuống được mọi người đưa đến bệnh viện cấp cứu, sau đó V tử vong.

Theo bản kết luận giám định pháp y tử thi 14/GĐPY–PC45 ngày 13/02/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tiền Giang đối với Trần Quang V:

Khám ngoài: Ghi nhận những nơi tổn thương trên cơ thể:

- Vùng ngực bên trái cách ngoài đường giữa 09cm, cách trên đầu vú trái 09cm có vết thương rách da còn chỉ khâu, dài 02cm, cắt chỉ vết thương có hình bầu dục, bờ mép sắc gọn, kích thước (0,2 x 0,7)cm; chiều hướng từ trước ra sau, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, sâu 4,5cm; Vùng ngực bên phải có vết thương rách da hình bầu dục, kích thước (03 x 0,5)cm; trên đường nách giữa ngang khoang liên sườn IX, bờ mép vết thương sắc gọn, chiều hướng từ trên xuống dưới, từ phải sang trái; Tay: Mặt trong ngón I bàn tay phải có vết thương rách da, bờ mép sắc gọn, kích thước (2,5 x 0,3)cm.

Nguyên nhân tử vong: Sốc mất máu cấp do vết thương xuyên thấu bụng thủng gan bởi vật sắc nhọn.

Theo Bên bản xem xét dấu vết trên thân thể hồi 18 giờ  40  phút ngày 16/01/2017 ghi nhận Nguyễn Thanh H có dấu vết ở các vị trí trên thân thể như sau:

Vết thương ngang bên trái đầu trên cách tai trái 0,5cm, kích thước (7,5 x0,3)cm, có tụ máu; Vết thương xay xát da hông lưng trái khu vực thắt lưng kích thước (2,5 x 01)cm. (bút lục: 247).

Theo bản kết luận giám định pháp y về thương tích 139/2017 ngày11/4/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Tiền Giang, kết luận Nguyễn Thanh H tổn thương do thương tích gây nên là 03%.

Ngày 17/5/2017 Nguyễn Thanh H có đơn yêu cầu khởi tố hình sự đối với LêĐức T2 về hành vi gây thương tích cho H.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Tiền Giang thu giữ vật chứng trong vụ án tại hiện trường gồm:

- 01 con dao (loại dao Thái Lan) dài 32cm, cán dao bằng nhựa màu đen dài 12cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài 20cm, nơi rộng nhất 2,6cm, hai mặt lưỡi dính nhiều vết đỏ nghi là máu, mũi dao nhọn; 01 con dao tự chế chiều dài 60cm, cán bằng kim loại màu trắng dạng trụ tròn dài 13,5cm, đường kính cán2,6cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng rộng nhất 4cm, bề mặt bị cong vênh, mũi dao nhọn; 01 đoạn gỗ (dạng cơ bi da) dài 70,5cm, đường kính đầu lớn 3cm, đường kính đầu nhỏ 2cm, màu vàng trắng đen; 01 đoạn gỗ (dạng cơ bi da) dài 69cm, một  đầu nhỏ có gắng nhựa đường kính 1,2cm, đầu lớn đường kính 2,2cm; 01 đoạn gỗ (dạng cơ bi da) dài 43cm, một đầu nhỏ có gắng kim loại, đường kính 2,2cm, đầu lớn có vết gãy, màu sắc đen, trên có chữ “Cramen Bliards cluk”; 01 đoạn gỗ (dạng cơ bi da) dài 39cm, một đầu nhỏ có gắng nhựa đường kính 3cm có gắng nhựa, trêncó chữ “Cramen Bliards cluk” Đầu còn lại có vết gãy; 01 đoạn gỗ (dạng cơ bi da) dài 52cm, đầu nhỏ có gắng nhựa đường kính 2,5cm đầu lớn có vết gãy; 01 đoạn gỗ (dạng cơ bi da) dài 43cm, đường kính đầu lớn 3,2cm đầu nhỏ có vết gãy.

- 01 đôi dép nhựa màu xanh dương có quai dài 24,5cm (loại dép lào); 01 đôi dép nhựa màu xanh có quai dài 24,5cm, trên quai có chữ“HIPHOP”; 01 đôi dép nhựa màu nâu, có quai dài mỗi chiếc 25,5cm, trên quai có chữ “GIDA”; 01 đôi dép nhựa màu đen, có quai bằng vải nhựa, dài mỗi chiếc 26,5cm, dép chân trái bị đứt quai.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện gia đình nạn nhân Trần Quang V, Chị Ung Thị Thúy A yêu cầu phía bị can Nguyễn Thanh H bồi thường chi phí mai táng, tổn thất tinh thần và cấp dưỡng nuôi con số tiền 311.400.000đ. Bị can Nguyễn Thanh H đã bồi thường 12.000.000đ.

Chị Trần Thị Vân Đ vợ Nguyễn Thanh H đã nhận của Lê Đức T2 3.000.000đ về bồi thường thiệt hại. H không có yêu cầu dân sự đối với T2.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm 44/2017/HSST ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đã quyết định:

Bị cáo Nguyễn Thanh H phạm tội “Giết người”;

Áp dụng: khoản 2 Điều 93; Điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điều 33, Điều 45 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh H 07 (bảy) năm tù về tội “Giết Người”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 17/01/2017.

Áp dụng: Điều 105; điều 180, Điều 199 Bộ luật tố tụng hình sự. Đình chỉ xét xử đối với bị cáo Lê Đức T2 về hành vi “Cố ý gây thương tích”.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo và thi hành án theo quy định pháp luật.

Ngày 03/10/2017 đại diện hợp pháp của bị hại chị Ung Thị Thúy A kháng cáo toàn bộ nội dung Bản án sơ thẩm, đề nghị sửa lại toàn bộ Bản án theo hướng tăng năng hình phạt cho bị cáo Nguyễn Thanh H và tăng trách nhiệm bồi thường về dân sự, cấp dưỡng nuôi con. Lý do Nguyễn Thanh H cố ý thực hiện hành vi giết người đến cùng, có tính chất côn đồ, dùng dao đâm liên tiếp vào hông và tim của Vinh mặc cho chị ôm con, nài nỉ van xin bị cáo nhưng không tha, Trần Quang V bị tật ở chân nên không có sức kháng cự hay phòng vệ, trước giờ không có mâu thuẫn với Nguyễn Thanh H. Bị cáo đã thủ sẵn hung khí trong người. Chồng là lao động chính trong gia đình hiện đã chết, chị không có khả năng nuôi con nhỏ và ổn định cuộc sống cũng như tinh thần. Gia đình bị cáo H không đến thăm hỏi cũng như bồi thường về vật chất, tinh thần cho chị.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện hợp pháp của bị hại chị Ung Thị Thúy A rút kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự, đồng ý với bản án sơ thẩm, vẫn giữ nguyên kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa nêu quan điểm: Việc rút lại kháng cáo của chị A về phần trách nhiệm dân sự là tự nguyện, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm phần kháng cáo này. Chị A vẫn giữ nguyên kháng cáo tăng hình phạt đối với bị cáo. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội. Lỗi trực tiếp do T2 và bạn của T2 gây ra cho bị cáo và gia đình bị cáo. Tại phiên tòa bị cáo khai bị V đánh nhiều cái và dùng cây cơ bi da đánh bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo về tội giết người theo Khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng pháp luật. Mức án tương xứng với tính chất và hành vi của bị cáo vì có lỗi của bị hại V. Chị A kháng cáo không đưa ra tình tiết mới, kháng cáo không có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của chị A, giữ nguyên án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thanh H thừa nhận cái chết của Trần Quang V là do bị cáo gây ra vào ngày 16/01/2017. Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 16/01/2017 tại trước nhà ông Nguyễn Hoàng M sinh 1958, ngụ Ấp T, xã 1, thị xã C, tỉnh Tiền Giang đã xảy ra ẩu đã giữa bị cáo H với bị cáo T2 và nhóm bạn bị cáo T2. Hậu quả là anh Trần Quang V sinh 1983, ngụ ấp 5, xã L, huyện G, tỉnh Bến Tre (bạn bị cáo T2) đã bị bị cáo Nguyễn Thanh H sử dụng hung khí là một con dao (loại dao Thái Lan) dài 32cm, cán dao bằng nhựa màu đen dài 12cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài 20cm, mũi dao sắc nhọn đâm chết. Riêng bản thân H, cũng bị Lê Đức T2 sử dụng 01 con dao tự chế chiều dài 60cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng mũi dao nhọn gây thương tích vào vùng đầu với tỷ lệ thương tật là 03%.

Nguyên nhân dẫn đến đánh nhau xuất phát từ mâu thuẫn giữa cha bị cáo H và T2 cùng nhóm bạn.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai những người làm chứng, Bên bản khám nghiệm hiện trường, bản kết luận giám định pháp y và các tài liệu khác đã có trong hồ sơ.

[3] Tòa án cấp phúc thẩm xem xét phần nội dung của bản án sơ thẩm bị kháng cáo theo quy định tại Điều 345 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

[3.1] Xét kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại chị Ung Thị Thúy A  đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy lỗi trực tiếp do T2 và nhóm bạn đến gây sự với bị cáo H. Bị cáo H gây án trong tình thế thụ động, hoàn toàn do lỗi của bị cáo T2 và nhóm bạn (trong đó có anh V là nạn nhân) nhiều lần đi tìm bị cáo gây sự và tấn công trước. Bị cáo H khi phạm tội là có lỗi của người bị hại, mặc dù đã được bạn cặp cổ kéo ra ngoài nhưng vẫn hung hăng xông vào dùng cây đánh bị cáo mới bị đâm chết. Tuy nhiên, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội, tạo tâm lý hoang mang lo sợ cho mọi người, cần thiết phải xử lý nghiêm nhằm răn đe phòng chống chung cho toàn xã hội.

Các lý do kháng cáo của chị A đưa ra là không đúng vì V đi từ ngoài gặp T5, T5 kéo trở ra nhưng V cố tình đi vào, khi đến chỗ H, V lượm một đoạn cây cơ cầm trên tay đánh H thì bị Hdùng dao đâm hai nhát vào ngực trái và nách phải, V té xuống được mọi người đưa đến bệnh viện cấp cứu, sau đó V tử vong. Bị cáo Hkhi phạm tội là có lỗi của người bị hại V. Tại Biên bản ghi lời khai ngày 18/8/2017 chị A có khai ngày 16/01/2017 chị và V chồng chị đi từ nhà đến nơi bị sát hại, đi bằng xe honda do chồng chở đi có ẩm con theo. Lúc chồng lượm cây cơ bi da tấn công H như thế nào thì chị hoàn toàn không thấy và chứng kiến, đến lúc V bị đâm và té nằm xuống thì chị mới chạy vào thấy. Hơn nữa tại phiên tòa sơ thẩm (Bút lục 336-339) chị A khai lúc chị vào thì thấy anh V bị đâm rồi, chị chở anh V đi, lúc đó anh V chưa chết. Chị Acòn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H. Tại phiên tòa phúc thẩm, chị A cũng xác nhận chị và V có đi đến nhà bị cáo và V có dùng cây cơ đánh bị cáo.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự  năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, án sơ thẩm xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H 07 năm tù về tội “Giết người” là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử  không chấp nhận kháng cáo của chị A đề nghị tăng hình phạt đối với Nguyễn Thanh H, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa đề nghị.

3.1] Xét kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại chị Ung Thị Thúy A  đề nghị tăng bồi thường về dân sự, cấp dưỡng nuôi con. Tại phiên tòa phúc thẩm, chị A rút lại kháng cáo, đồng ý với bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự. Do đó, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo của chị A về trách nhiệm dân sự theo quy định tại Khoản 3 Điều 342 Bộ luật tố tụng hình sự năm2015 như đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa đề nghị.

[4] Do không được chấp nhận kháng cáo,  Chị A phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các nội dung khác trong quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã phát sinh hiệu lực pháp luật.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 3 Điều 342 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của chị Ung Thị Thúy A về phần trách nhiệm dân sự.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Không chấp nhận kháng cáo của chị Ung Thị Thúy A về tăng hình phạt đối vớibị cáo Nguyễn Thanh H. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Áp dụng: khoản 2 Điều 93; Điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điều 33, Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh H 07 (Bảy) năm tù về tội “Giết Người”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 17/01/2017.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Thanh H theo quyết định của Hội đồng xét xử để đảm bảo thi hành án.

Các nội dung khác trong quyết định Bản án hình sự sơ thẩm 44/2017/HSST ngày 21/9/2017 Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Chị Ung Thị Thúy A phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

398
  • Tên bản án:
    Bản án 80/2018/HSPT ngày 24/01/2018 về tội giết người
  • Cơ quan ban hành:
  • Số hiệu:
    80/2018/HSPT
  • Cấp xét xử:
    Phúc thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    24/01/2018
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2018/HSPT ngày 24/01/2018 về tội giết người

Số hiệu:80/2018/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về