Bản án 1870/2019/HNGĐ-ST ngày 03/12/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1870/2019/HNGĐ-ST NGÀY 03/12/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 03 tháng 12 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 487/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 9 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 5613/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Võ Trang Linh P, sinh năm 1988 Địa chỉ: Đường M, phường N, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Bị đơn: Ông Nguyen Anh H (Nguyễn Hoàng A), sinh năm 1967 Địa chỉ: USA.

NHẬN THẤY

 Trong đơn khởi kiện ngày 08/8/2019 và bản tự khai ngày 23/9/2019, nguyên đơn bà Võ Trang Linh P trình bày:

Vào năm 2016, bà và ông Nguyen Anh H (Nguyễn Hoàng A) tự nguyện kết hôn với nhau, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Sở Tư pháp và được UBND Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 109, Quyển số 1 ngày 11/01/2016.

Sau khi kết hôn, ông Nguyen Anh H trở về Hoa Kỳ sinh sống và làm việc còn bà vẫn ở Việt Nam. Vợ chồng vẫn thường xuyên liên lạc với nhau qua điện thoại. Do vợ chồng mỗi người sống một nơi, không có điều kiện quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Từ đó, tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, việc liên lạc thưa dần. Đến nay, bà xác định tình cảm đối với chồng không còn, không thể duy trì cuộc hôn nhân được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Về con chung: không có Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Tại Bản tự khai của bị đơn ông Nguyen Anh H (Nguyễn Hoàng A) đề ngày 16/9/2019 được Tổng Lãnh sự quán nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại San Francisco chứng nhận ngày 09/10/2019 có nội dung như sau:

Vào năm 2016, ông và bà Võ Trang Linh P tự nguyện kết hôn với nhau, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Sở Tư pháp và được UBND Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 109, Quyển số 1 ngày 11/01/2016.

Sau khi kết hôn, ông trở về Hoa Kỳ sinh sống và làm việc còn vợ vẫn ở Việt Nam. Vợ chồng vẫn thường xuyên liên lạc với nhau qua điện thoại. Do cách trở về mặt địa lý nên vợ chồng mỗi người sống một nơi, không có điều kiện quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Đến nay, giữa hai bên không còn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt. Ông đồng ý ly hôn theo yêu cầu của bà P.

Về con chung: không có.

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Võ Trang Linh P, bị đơn ông Nguyen Anh H (Nguyễn Hoàng A) vắng mặt.

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:

Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của tố tụng dân sự về thụ lý vụ án, thủ tục thu thập chứng cứ, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu và thủ tục xét xử vắng mặt tại phiên tòa.

Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Bà Võ Trang Linh P được ly hôn ông Nguyen Anh H (Nguyễn Hoàng A). Con chung: không có. Tài sản chung không có gì.

XÉT THẤY

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn bà Võ Trang Linh P đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam; bị đơn ông Nguyen Anh H (Nguyễn Hoàng A) đang cư trú tại Hoa Kỳ, giữa đôi bên có tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam theo quy định tại Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 2 Điều 38, Điều 464, Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 122, Điều 123, Điều 124 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Bà Võ Trang Linh P và ông Nguyen Anh H (Nguyễn Hoàng A) đều có đơn đề nghị vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người tham gia tố tụng.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

Xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy:

Bà Võ Trang Linh P và ông Nguyen Anh H (Nguyễn Hoàng A) tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2016, có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 109, Quyển số 01 ngày 11/01/2016 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy hôn nhân giữa đôi bên là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Theo lời khai của đôi bên thì sau khi kết hôn, ông Nguyen Anh H (Nguyễn Hoàng A) trở về Hoa Kỳ sinh sống và làm việc còn bà P ở lại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Vợ chồng vẫn liên lạc với nhau bình thường, bằng hình thức gọi điện thoại. Sau đó, do vợ chồng sống xa nhau, không có điều kiện quan tâm chăm sóc lẫn nhau nên tình cảm rạn nứt, lạnh nhạt dần. Đến nay, bà P xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục cuộc hôn nhân được nữa, yêu cầu giải quyết ly hôn. Ý kiến ông Nguyen Anh H (Nguyễn Hoàng A) cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của bà P.

Nhận thấy, quá trình hôn nhân giữa đôi bên thực tế không thể dung hoà được, giữa vợ chồng không còn muốn tiếp tục sống chung với nhau, không còn sự quan tâm, chăm sóc, tôn trọng và giúp đỡ nhau. Xét, nếu tiếp tục kéo dài quan hệ hôn nhân nói trên thì mục đích của hôn nhân cũng không thể đạt được. Do đó, việc đôi bên có nguyện vọng chấm dứt quan hệ hôn nhân là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp pháp luật, Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về con chung: Đôi bên thống nhất khai không có.

Về tài sản chung và nợ chung: bà Võ Trang Linh P, ông Nguyen Anh H (Nguyễn Hoàng A) đều khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng nguyên đơn chịu. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 2 Điều 38, Điều 464, điểm d khoản 1 Điều 469, Điều 478, Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 19, Điều 51, Điều 54, Điều 55, Điều 57, Điều 123, Điều 124, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu , nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự 2008;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Trang Linh P được ly hôn ông Nguyen Anh H (Nguyễn Hoàng A).

Giấy chứng nhận kết hôn vào Sổ số 109, Quyển số 01 ngày 11/01/2016 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: không có.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Võ Trang Linh P và ông Nguyen Anh H (Nguyễn Hoàng A) khai không có.

4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng bà Võ Trang Linh P nộp tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, cấn trừ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng bà P đã nộp tại Biên lai thu số AA/2019/0024303 ngày 23/8/2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, bà P đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn bà Võ Trang Linh P và bị đơn ông Nguyen Anh H (Nguyễn Hoàng A); bà Võ Trang Linh P được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ, ông Nguyen Anh H (Nguyễn Hoàng A) được quyền kháng cáo trong thời hạn 01(một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1870/2019/HNGĐ-ST ngày 03/12/2019 về ly hôn

Số hiệu:1870/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về