Bản án 186/2018/HS-ST ngày 13/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ G, TỈNH KIÊN GIANG   

BẢN ÁN 186/2018/HS-ST NGÀY 13/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố G xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 246/2018/HSST, ngày 19 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 208/2018/QĐXXST-HS, ngày 25 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Lê Anh H, sinh năm 1987; Nơi ĐKTT: Số 588/4B đường B, phường 16, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở hiện nay: Số 588/4B đường B, phường 16, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H – Sinh năm: 1957 và bà Nguyễn Thị Hg – Sinh năm: 1965; anh, em ruột 02 người, lớn nhất sinh năm 1985, nhỏ nhất sinh năm 1999; Vợ: Hứa Thanh Thu – sinh năm: 1989; Con ruột 01 người, sinh năm 2010; bản thân: tiền án; tiền sự: Không có; Từ tháng 3 đến ngày 08/5/2018 có hành vi Mua bán trái phép chất ma túy bị bắt tạm giữ; ngày 08/5/2018 bị tạm giam theo Lệnh số 11 ngày 14/5/2018, của Cơ quan Cảnh sát điều tra– Công  an thành phố G. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố G, tỉnh Kiên Giang; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

Huỳnh Kim T, sinh năm 1984; Địa chỉ: Ấp R, xã Y, huyện B, tỉnh Kiên Giang.

Nguyễn Văn T, sinh năm 1993; Địa chỉ: Ấp B, xã Y, huyện B, tỉnh Kiên Giang.

- Người chứng kiến: M, sinh năm 1958; Địa chỉ: Số 182 H, phường S, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ 45 phút, ngày 08/5/2018 tại phòng số 04 nhà trọ TM, ở số 182 đường H, phường S, thành phố G, tỉnh Kiên Giang, phòng Cảnh sát điều tra về tội phạm ma túy, Công an tỉnh Kiên Giang kết hợp với Công an phường S bắt quả tang Lê Anh H đang tàng trữ trái phép 01 (một) bịch ma túy (loại ma túy đá), có kích thước 6,2 cm x 08 cm và một số vật chứng khác.

Qua điều tra xác định được, nguồn ma túy là do H mua của một người tên Tài (chưa rõ tên thật, địa chỉ) ở quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh, 08 lần, mỗi lần 01 bịch ma túy với giá 1.200.000 đồng đến 8.000.000 đồng. Sau đó, H đem ma túy về chia nhỏ để sử dụng và bán lại cho những nghiện để kiếm lời.

Từ tháng 3/2018 đến ngày bị bắt quả tang, thông qua liên lạc bằng điện thoại để trao đổi về số lượng ma túy cần mua, giá tiền, địa điểm và cách thức giao ma túy, H đã nhiều lần đem ma túy từ thành phố Hồ Chí Minh xuống tỉnh Kiên Giang bán người nghiện, cụ thể như sau:

Vào tháng 3/2018 (không nhớ ngày cụ thể), tại khu vực tuyến chánh thị trấn Thứ 3, huyện B, tỉnh Kiên Giang, Lê Anh H bán cho Huỳnh Kim T, sinh năm 1984, trú tại tổ 9, ấp R, xã Y, huyện B, tỉnh Kiên Giang 01 (một) bịch ma túy với giá 2.800.000 đồng.

Vào tháng 3/2018 (không nhớ ngày cụ thể), tại khu vực tuyến chánh thị trấn Thứ 3, huyện B, tỉnh Kiên Giang, Lê Anh H bán cho Huỳnh Kim T, sinh năm 1984, trú tại tổ 9, ấp R, xã Y, huyện B, tỉnh Kiên Giang 01 (một) bịch ma túy với giá 3.000.000 đồng.

Vào tháng 4/2018 (không nhớ ngày cụ thể), tại khu vực tuyến chánh thị trấn Thứ 3, huyện B, tỉnh Kiên Giang, Lê Anh H bán cho Huỳnh Kim T, sinh năm 1984, trú tại tổ 9, ấp R, xã Y, huyện B, tỉnh Kiên Giang 01 (một) bịch ma túy với giá 900.000 đồng.

Vào tháng 4/2018 (không nhớ ngày cụ thể), tại khu vực tuyến chánh thị trấn Thứ 3, huyện B, tỉnh Kiên Giang, Lê Anh H bán cho Huỳnh Kim T, sinh năm 1984, trú tại tổ 9, ấp R, xã Y, huyện B, tỉnh Kiên Giang 01 (một) bịch ma túy với giá 2.000.000 đồng, nhưng lần này Thùy trả trước cho H 700.000 đồng.

Vào tháng 4/2018 (không nhớ ngày cụ thể), tại khu vực gần chợ thứ 7, huyện B, tỉnh Kiên Giang, Lê Anh H bán cho Nguyễn Văn T, sinh năm 1993, trú tại ấp B, xã Tây Yên, huyện B, tỉnh Kiên Giang 01 (một) bịch ma túy với giá 1.500.000 đồng.

Vào tháng 07/5/2018, Nguyễn Văn T điện thoại cho Lê Anh H hỏi mua 01 (một) bịch ma túy với giá 8.000.000 đồng, thì H đồng ý. Sau đó, H mua từ thành phố Hồ Chí Minh đi xe khách xuống thành phố G để giao ma túy cho Tuyển. Đến khoảng 10 giờ 45 phút ngày 08/5/2018, H xuống đến Bến xe tỉnh Kiên Giang thì T điện thoại kêu H vào phòng số 4, nhà trọ TM, ở số 182 đường H, phường S, thành phố G, tỉnh Kiên Giang. Khi vào phòng số 4, nhà trọ TM thì bị Công an thành phố G kiểm tra và bắt giử về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, thu giữ của H 01 (mộ) bịch ma túy.

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố, bị can Lê Anh H đều khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải, hợp tác tốt với các cơ quan tiến hành tố tụng để làm rõ nội dung vụ án.

* Việc thu giữ vật chứng:

Thu giữ trên người và nơi ở của Lê Anh H:

- 01 (một) bịch nylon được hàn kín, có kích thước 6,2 cm x 08 cm, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng không đồng nhất đã được niêm phong;

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Sony Xperia, màu xám, đã qua sử dụng;

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X1, không có số Imei, đã qua sử dụng;

- Tiền Việt Nam: 8.900.000 đồng (Tám triệu chín trăm ngàn đồng).

* Tại Bản kết luận giám định số: 348/KL-KTHS, ngày 14/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Kiên Giang, kết luận:

Các hạt tinh thể màu trắng, không đồng nhất chứa trong 01 (Một) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 13,8037gam. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 67, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.

* Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì ký hiệu vụ số 384, ngày 14/5/2018, có chữ ký của giám định viên Lê Đức H và người chứng kiến Hồ Thị Tú A.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước, tiền và tài sản dùng vào việc phạm tội và do phạm tội mà có gồm:

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X1, không có số Imei, đã qua sử dụng;

+ Tiền Việt Nam: 8.900.000 đồng (Tám triệu chín trăm ngàn đồng).

- Trao trả trả lại tài sản không liên quan đến vụ án:

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Sony Xperia, màu xám, đã qua sử dụng; Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì đối với kết luận giám định nêu trên.

- Tại bản cáo trạng số 187/CT-VKSTPRG, ngày 18 tháng 10 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Thái Nhựt Trường về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, được quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, i khoản 2 Điều 251, điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lê Anh H mức án từ 05 năm đến 06 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì ký hiệu vụ số 384, ngày 14/5/2018, có chữ ký của giám định viên Lê Đức H và người chứng kiến Hồ Thị Tú A (theo Quyết định chuyển vật chứng số: 61/QĐ-VKSTPRG, ngày 18/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố G).

- Tịch thu sung quỹ nhà nước, tiền và tài sản dùng vào việc phạm tội và do phạm tội mà có gồm:

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X1, không có số Imei, đã qua sử dụng;

+ Tiền Việt Nam: 8.900.000 đồng (Tám triệu chín trăm ngàn đồng).

- Trao trả lại cho Lê Anh H tài sản không liên quan đến vụ án:

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Sony Xperia, màu xám, đã qua sử dụng;

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Bị cáo Lê Anh H xin được giảm nhẹ hình phạt tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố G, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo H và những chứng cứ xác định có tội: Vào tháng 3/2018 (không nhớ ngày cụ thể), tại khu vực tuyến chánh thị trấn Thứ 3, huyện B, tỉnh Kiên Giang, bị cáo bán cho Huỳnh Kim T, sinh năm 1984, trú tại tổ 9, ấp R, xã Y, huyện B, tỉnh Kiên Giang 01 (một) bịch ma túy với giá 2.800.000 đồng. Vào tháng 3/2018 (không nhớ ngày cụ thể), tại khu vực tuyến chánh thị trấn Thứ 3, huyện B, tỉnh Kiên Giang, bị cáo bán cho Huỳnh Kim T, sinh năm 1984, trú tại tổ 9, ấp R, xã Y, huyện B, tỉnh Kiên Giang 01 (một) bịch ma túy với giá 3.000.000 đồng. Vào tháng 4/2018 (không nhớ ngày cụ thể), tại khu vực tuyến chánh thị trấn Thứ 3, huyện B, tỉnh Kiên Giang, bị cáo bán cho Huỳnh Kim T, sinh năm 1984, trú tại tổ 9, ấp R, xã Y, huyện B, tỉnh Kiên Giang 01 (một) bịch ma túy với giá 900.000 đồng. Vào tháng 4/2018 (không nhớ ngày cụ thể), tại khu vực tuyến chánh thị trấn Thứ 3, huyện B, tỉnh Kiên Giang, bị cáo bán cho Huỳnh Kim T, sinh năm 1984, trú tại tổ 9, ấp R, xã Y, huyện B, tỉnh Kiên Giang 01 (một) bịch ma túy với giá 2.000.000 đồng, nhưng lần này Thùy trả trước cho bị cáo 700.000 đồng. Vào tháng 4/2018 (không nhớ ngày cụ thể), tại khu vực gần chợ thứ 7, huyện B, tỉnh Kiên Giang, bị cáo bán cho Nguyễn Văn T, sinh năm 1993, trú tại ấp B, xã Tây Yên, huyện B, tỉnh Kiên Giang 01 (một) bịch ma túy với giá 1.500.000 đồng.

Vào tháng 07/5/2018, Nguyễn Văn T điện thoại cho bị cáo hỏi mua 01 (một) bịch ma túy với giá 8.000.000 đồng, thì bị cáo đồng ý. Sau đó, bị cáo mua từ thành phố Hồ Chí Minh đi xe khách xuống thành phố G để giao ma túy cho Tuyển. Đến khoảng 10 giờ 45 phút ngày 08/5/2018, bị cáo xuống đến Bến xe tỉnh Kiên Giang thì Tuyển điện thoại kêu bị cáo vào phòng số 4, nhà trọ TM, ở số 182 đường H, phường S, thành phố G, tỉnh Kiên Giang. Khi vào phòng số 4, nhà trọ TM thì bị Công an thành phố G kiểm tra và bắt giử về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ của bị cáo 01 (một) bịch ma túy (qua giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng là 13,8037 gam). Đến ngày 14/5/2018, bị cáo Lê Anh H bị Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố G khởi tố, tạm giam để điều tra.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ căn cứ để Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Lê Anh H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, được quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như truy tố của Viện kiểm sát là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

Xét về nhân thân, hành vi, động cơ, tính chất, mức độ và hậu quả trong việc phạm tội của bị cáo: Xét thấy bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm phạm pháp luật, trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất về ma túy; bị cáo nhận thức rõ tác hại của việc sử dụng ma túy là gây tổn hại đến thể chất, tinh thần của con người, nó cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác, ảnh hưởng đến tình hình trật tự, trị an trong khu vực, nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội một cách cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, do đó sau khi nghị án Hội đồng xét xử thống nhất xử phạt bị cáo bằng mức án cao của khung hình phạt, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời cũng nhằm tuyên truyền, phòng ngừa chung cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tuy nhiên, xét thấy bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt thể hiện việc bị cáo không có tiền án, tiền sự; tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội và ăn năn, hối cải, trước khi bị cáo phạm tội thì bị cáo có phụ tiếp đóng hàng cho gia đình và có thu nhập, do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bên cạnh đó, hành vi phạm tội của bị cáo H tương ứng với quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, điều luật trên quy định cụ thể như sau:

 “2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Đối với 02 người trở lên;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

e) Sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho người dưới 16 tuổi;

g) Qua biên giớii;

i) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR -11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;….”……….

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố G tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) phong bì ký hiệu vụ số 384, ngày 14/5/2018, có chữ ký của giám định viên Lê Đức H và người chứng kiến Hồ Thị Tú A (theo Quyết định chuyển vật chứng số: 61/QĐ-VKSTPRG, ngày 18/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố G) Hội đồng xét xử quyết định tịch thu tiêu hủy theo quy định pháp luật.

Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X1, không có số Imei, đã qua sử dụng; Tiền Việt Nam: 8.900.000 đồng (Tám triệu chín trăm ngàn đồng) Hội đồng xét xử quyết tịch thu sung quỹ nhà nước theo quy định pháp luật.

- Trao trả lại tài sản không liên quan đến vụ án:

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Sony Xperia, màu xám, đã qua sử dụng của Lê Anh H;

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm b, i khoản 2 Điều 251, điểm r, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Lê Anh H phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lê Anh H mức án 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ: Ngày 08/5/2018.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì ký hiệu vụ số 384, ngày 14/5/2018, có chữ ký của giám định viên Lê Đức H và người chứng kiến Hồ Thị Tú A (theo Quyết định chuyển vật chứng số: 61/QĐ-VKSTPRG, ngày 18/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố G).

Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X1, không có số Imei, đã qua sử dụng; Tiền Việt Nam: 8.900.000 đồng (Tám triệu chín trăm ngàn đồng) Hội đồng xét xử quyết tịch thu sung quỹ nhà nước theo quy định pháp luật.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, buộc bị cáo Lê Anh H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (13/11/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 186/2018/HS-ST ngày 13/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:186/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về