Bản án 185/2019/HNGĐ-ST ngày 23/04/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CP, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 185/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 23 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện CP xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 589/2018/TLST - HNGĐ ngày 05 tháng 12 năm 2018 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1994; (Có mặt).

Trú tại: Số 660/3, tổ 17, khóm Vĩnh T, phường Núi S, thành phố Châu Đ, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1989; (Vắng mặt).

Trú tại: Ấp Khánh M, xã Khánh H, huyện CP, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 01/11/2018 và trong quá trình xét xử nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc H trình bày: Chị và anh L tìm hiểu và chung sống với nhau từ năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Núi S, thành phố Châu Đ, tỉnh An Giang. Sau khi cưới vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, do anh L thường hay ăn chơi đánh bài, số đề thiếu nợ nhiều, chị đã khuyên anh L nhiều lần, sau đó anh L đi xuất khẩu lao động 02 năm trở về lại tiếp tục cờ bạc, không sửa chữa, vợ chồng thường hay bất đồng quan điểm sống, anh L không quan tâm lo lắng cho vợ con, vợ chồng đã ly thân từ tháng 9/2018 đến nay. Nay nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị H yêu cầu được ly hôn với anh L. Về con chung: Chị H và anh L chung sống có 01 con chung tên Nguyễn Quốc Kh, sinh ngày 11/5/2016 đang ở với chị H, ly hôn yêu cầu tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn L Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác nhưng ông Bình vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến, nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh L Tại phiên tòa, chị H giữ nguyên yêu cầu ly hôn với anh L, con chung yêu cầu tiếp tục nuôi, không yêu cầu cấp dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Anh L vắng mặt tại phiên tòa.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện CP phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và phát biều ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Về nội dung giải quyết vụ án: Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, chị Hường cho rằng chị và anh L chung sống thường xảy ra nhiều mâu thuẫn, cải vả nhau, anh L thường hay cờ bạc, không quan tâm lo lắng cho vợ con, không còn tình cảm, nên vợ chồng đã ly thân từ tháng 9/2018 đến nay, hôn nhân của anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị H yêu cầu ly hôn với anh L là có cơ sở chấp nhận.

- Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Quốc Kh, sinh ngày 11/5/2016, sau khi vợ chồng ly thân đến nay cháu Kh do chị H chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định. Do đó, để ổn định cuộc sống của con chung và theo yêu cầu của chị H muốn tiếp tục nuôi con chung nên đề nghị giao cháu Kh cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp theo khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có. Đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết đúng theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định: [1] Về thủ tục tố tụng:

- Về thẩm quyền giải quyết: Anh Nguyễn Văn L có hộ khẩu thường trú tại xã Khánh H, huyện CP, tỉnh An Giang. Chị H khởi kiện xin ly hôn, Tòa án nhân dân huyện CP thụ lý, giải quyết là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Bị đơn Nguyễn Văn L được Tòa án nhân dân huyện CP tống đạt văn bản tố tụng, triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ, nhưng anh L vẫn vắng mặt không có lý do, nguyên đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung vụ án:

- Về hôn nhân: Chị H và anh L tìm hiểu yêu thương nhau và chung sống chung sống năm 2015 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Núi S, thành phố Châu Đ, tỉnh An Giang nên được pháp luật công nhận là vợ chồng và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 8, khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Xét về nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị H và anh L, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa thấy rằng chị H và anh L chung sống thường xảy ra nhiều mâu thuẫn, anh L không quan tâm đến vợ con, thường hay ăn chơi cờ bạc, chị H đã khuyên và tạo cơ hội nhiều lần cho anh L sửa chữa, vợ chồng đã ly thân từ tháng 9/2018 đến nay, hiện nay tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên chị H xin ly hôn với anh L. Quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa chị H kiên quyết xin ly hôn với anh L. Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh L để tiến hành giải nhưng anh L không đến tham dự. Hội đồng xét xử xét thấy anh L không có ý định hàn gắn quan hệ vợ chồng, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H.

- Về con chung: Chị H và anh L chung sống có 01 con chung tên Nguyễn Quốc Kh, sinh ngày 11/5/2016 đang ở với chị H. Ly hôn, chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh L cấp dưỡng. Xét, từ khi ly thân đến nay cháu Kh do chị H chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định, đồng thời chị H có việc làm và thu nhập ổn định. Do đó, để đảm bảo cuộc sống của con chung và theo yêu cầu của chị H, Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu Kh cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng. Anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; quyền nuôi con là không cố định. Vì lợi ích của con theo yêu cầu của một hoặc cả hai, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H không yêu cầu anh L cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét. [3] Về án phí:

Chị H phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẻ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 9; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Điều 27 của Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ngọc H được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Quốc Kh, sinh ngày 11/5/2016 cho chị Nguyễn Thị Ngọc H được trực tiếp nuôi dưỡng. Anh L không phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị H cùng với các thành viên trong gia đình không được cản trở anh L trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Ngọc H phải chịu 300.000 đồng (Ba tr m ngh n đồng) án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0010305 ngày 05 tháng 12 năm 2018 của Cục thi hành án dân sự huyện CP.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự th người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 185/2019/HNGĐ-ST ngày 23/04/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:185/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về