TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 185/2018/HS-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 11 năm 2018 Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 176/2018/TLST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 186/2018/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn T1, sinh ngày 28 tháng 4 năm 1979; nơi cư trú: Thôn Th, xã V, huyện V, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1952 và bà Lưu Thị C, sinh năm 1954; có vợ là Bùi Thị M, sinh năm 1985 và 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 07/11/1998 Công an huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình bắt về hành vi trộm cắp tài sản công dân, kết quả xác minh Công an huyện Vũ Thư không còn lưu hồ sơ để cung cấp. Tháng 3 năm 1999 tham gia nghĩa vụ quân sự đến tháng 7 năm 2001 xuất ngũ về địa phương; bị tạm giữ từ ngày 13 tháng 8 năm 2018 đến ngày 16 tháng 8 năm 2018 chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; có mặt.
- Người chứng kiến:
+ Anh Nguyễn Thế V, sinh năm 1973; nơi cư trú: phường P, thành phố Th, tỉnh Thái Bình; vắng mặt
+ Anh Trần Văn S, sinh năm 1994; nơi cư trú: Thôn N, xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình; vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ 45 phút ngày 13 tháng 8 năm 2018, Nguyễn Văn T1 đi xe ôm từ nhà đến khu vực phường Q, thành phố Th, tỉnh Thái Bình mục đích mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây T1 gặp và mua ma túy của một người nam giới khoảng 30 tuổi không biết tên, địa chỉ 200.000 đồng được một gói Hêrôin và cầm trong lòng bàn tay phải đi tìm nơi để sử dụng. Khi T1 đi đến khu vực phường Q, thành phố Th thì bị tổ công tác Công an thành phố Thái Bình yêu cầu dừng lại để kiểm tra. Trước sự chứng kiến của anh Trần Văn S và anh Nguyễn Tiến V, T1 tự giác giao nộp từ lòng bàn tay phải của T1 cho tổ công tác 01 gói ma túy và khai nhận là Hêrôin vừa mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác mở kiểm tra gói ma túy bên ngoài được gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục rồi niêm phong trong phong bì. Sau đó tổ công tác yêu cầu T1 và mời người chứng kiến về trụ sở Công an phường Quang Trung làm việc. Tại đây kiểm tra người T1, tổ công tác không thu giữ gì thêm. Sau đó tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và biên bản niêm phong vật chứng.
Bản Kết luận giám định số: 316/KLGĐ-PC54 ngày 13 tháng 8 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Mẫu gửi giám định thu của Nguyễn Văn T1 là ma túy, loại Hêrôin, có khối lượng 0,1642 gam (không phẩy một nghìn sáu trăm bốn mươi hai gam)”.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo T1 không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình nêu trên.
Bản cáo trạng số: 185/CT-VKSTP ngày 07 tháng 11 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Nguyễn Văn T1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Đề nghị Hội đồng xét xử:
* Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”
* Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T1 từ 12 đến 15 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy của bị cáo T1 0,1642 gam ma túy loại Hêrôin còn lại sau giám định là 0,1510 gam trong bao niêm phong số 316/KLGĐ.
* Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có ý kiến và tranh luận gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 13 tháng 8 năm 2018 tại khu vực phường Q, thành phố Th, tỉnh Thái Bình, Nguyễn Văn T1 đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy, loại Hêrôin, có khối lượng 0,1642 gam mục đích để sử dụng cho bản thân bị tổ công tác Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang. Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, lời khai của bị cáo T1 phù hợp với lời khai của người chứng kiến anh Trần Văn S và anh Nguyễn Tiến V. Lời khai của bị cáo còn được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thành phố Thái Bình lập hồi 10 giờ 45 phút ngày 13 tháng 8 năm 2018; biên bản niêm phong vật chứng tại Công an thành phố Thái Bình lập hồi 11 giờ 30 phút ngày 13 tháng 8 năm 2018; bản Kết luận giám định số: 316/KLGĐ- PC54 ngày 13 tháng 8 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 thì: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:[...] c) Heroin, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; [...]”
Như vậy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
[3] Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm quy định quản lý chất gây nghiện của Nhà nước. Ma túy là vật cấm lưu hành, không những làm sa sút về sức khỏe trí tuệ con người mà nó còn làm hủy hoại đạo đức nhân cách con người, phá vỡ hạnh phúc gia đình, là tác nhân lan truyền đại dịch HIV/AIDS, là nguồn gốc phát sinh các loại tội phạm khác gây ảnh hưởng đến trật tự trị an. Vì vậy phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về tình tiết tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo và bị cáo có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017.
[5] Trên cơ sở đánh giá tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước.
[6] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, nhưng do bị cáo T1 tàng trữ ma túy nhằm mục đích sử dụng cho bản thân nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Công an thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn T1 0,1642 gam (không phẩy một nghìn sáu trăm bốn mươi hai gam) ma túy loại Hêrôin còn lại sau giám định là 0,1510 gam (không phẩy một nghìn năm trăm mười gam) trong phong bì niêm phong số 316/KLGĐ là vật Nhà nước cấm lưu hành, căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, các điều 106,136, 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T1 01 năm (một năm) tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 13 tháng 8 năm 2018).
2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy của bị cáo Nguyễn Văn T1 0,1642 gam (không phẩy một nghìn sáu trăm bốn mươi hai gam) ma túy loại Hêrôin còn lại sau giám định là 0,1510 gam (không phẩy một nghìn năm trăm mười gam) trong bao niêm phong số 316/KLGĐ.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình ngày 07 tháng 11 năm 2018)
3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T1 phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 28/11/2018.
Bản án 185/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 185/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về