Bản án 1846/2018/HNGĐ-ST ngày 12/12/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1846/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/12/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 12 tháng 12 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 107/2016/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2016 về “Tranh chấp ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 4982/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa sơ thẩm số 9380/2018/QĐ-ST ngày 12 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lu Gia N (vắng mặt).

Địa chỉ: đường A, khu phố B, phường C, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông L (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện ngày 10/3/2016 và lời khai của nguyên đơn – bà Lu Gia N thì:

Bà và ông L tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn ngày 11/9/2015, vào sổ đăng ký kết hôn số 2244, quyển số 12 ngày 14/9/2015. Sau khi kết hôn, Bà và ông L chưa chung sống. Tháng 8/2015, Bà tham gia phỏng vấn để làm thủ tục xuất cảnh sang Đài Loan chung sống với ông L nhưng không được chính quyền Đài Loan chấp nhận. Sau đó, Bà và ông L thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính cách không phù hợp. Đến ngày 02/2/2016, ông L về Đài Loan và không quay lại Việt Nam cho đến nay. Do tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên Bà khởi kiện yêu cầu ly hôn ông L. Bà và ông L không có con chung, tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt Bà.

Tòa án đã ủy thác tư pháp cho cơ quan có thẩm quyền của Đài Loan, nơi bị đơn – ông L cư trú, để tống đạt thông báo về việc thụ lý, ngày mở phiên họp, phiên tòa và nhận được Thông báo của cơ quan có thẩm quyền của Đài Loan về việc tống đạt không thực hiện được do ông L không còn cư trú tại khóm E, phường G, thị trấn H, huyện I, Lãnh thổ Đài Loan nhưng không rõ địa chỉ mới. Do Nguyên đơn – bà Lu Gia N không cung cấp được địa chỉ mới của ông L theo yêu cầu của Tòa án; Tòa án đã yêu cầu cơ quan có Thẩm quyền của Việt Nam và Đài Loan xác minh tin tức, địa chỉ của ông L nhưng không rõ địa chỉ mới nên theo yêu cầu của nguyên đơn – bà Lu Gia N, Tòa án đã thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án, Cổng thông tin điện tử của cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Đài Loan về việc thụ lý, ngày mở phiên họp, phiên tòa theo quy định tại Điểm c, Khoản 6, Điều 477 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, bị đơn – ông L không có văn bản trả lời và vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa sơ thẩm: Kiểm sát viên phát biểu:

Về tố tụng: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Các đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của pháp luật.

Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Căn cứ Khoản 2, Điều 37; Điều 38 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa Gia đình và Người chưa thành niên – Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thụ lý, giải quyết vụ án đúng thẩm quyền.

Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa bà Lu Gia N và ông L là hợp pháp. Theo trình bày của bà Lu Gia N thì Bà và ông L không chung sống thực tế, hiện tại vợ chồng ở hai nước khác nhau; không quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được nên căn cứ Khoản 1, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lu Gia N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Lu Gia N khởi kiện yêu cầu ly hôn ông L đang cư trú tại Đài Loan nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa Gia đình và Người 2 chưa thành niên – Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Khoản 1, Điều 28; Điều 35; Điều 37; Điểm a, Khoản 2, Điều 38 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Do bà Lu Gia N có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên căn cứ Khoản 4, Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án không tiến hành hòa giải.

[3] Bà Lu Gia N vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Ông L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do chính đáng nên căn cứ Khoản 2, Điều 227; Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bà Lu Gia N và ông L.

[4] Về hôn nhân: Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn do Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 11/9/2015, vào sổ đăng ký kết hôn số 2244, quyển số 12 ngày 14/9/2015 thì quan hệ hôn nhân giữa bà Lu Gia N và ông L là hợp pháp. Từ năm 2016 đến nay, vợ chồng bà Lu Gia N và ông L không chung sống; không quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không cùng nhau chia sẽ, thực hiện các công việc trong gia đình là vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên căn cứ Khoản 1, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, yêu cầu ly hôn của bà Lu Gia N có căn cứ để chấp nhận.

[5] Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Bà Lu Gia N trình bày Bà và ông L không có con chung, tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào Khoản 4, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 1, Điều 48 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và Khoản 8, Điều 27 của Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009 thì do bà Lu Gia N khởi kiện yêu cầu ly hôn nên bà Lu Gia N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1, Điều 28; Điều 35; Điều 37; Khoản 2, Điều 38; Khoản 4, Điều 147; Khoản 1, Điều 273 và Khoản 1, Khoản 2, Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 19; Khoản 1, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ Khoản 1, Điều 48 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Khoản 8, Điều 27 của Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009,

1. Về hôn nhân: Bà Lu Gia N được ly hôn ông L.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lu Gia N phải chịu 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được trừ số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AE/2011/03202 ngày 23 tháng 3 năm 2016 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh. Bà Lu Gia N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại của Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm. Thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày đối với bà Lu Gia N và 01 (một) tháng đối với ông L kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ cho họ hoặc được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1846/2018/HNGĐ-ST ngày 12/12/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1846/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về