Bản án 183/2020/HNGĐ-ST ngày 08/05/2020 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 183/2020/HNGĐ-ST NGÀY 08/05/020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 08 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình đã thụ lý số: 676/2019/TLST-HNGĐ ngày 26/12/2019 về việc tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/02/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị Hồng X, sinh năm 1967; (có mặt)

Địa chỉ: ấp M, xã N, huyện P, tỉnh Tiền Giang; Tạm trú: ấp M, xã N, huyện P, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn: Nguyễn Văn D, sinh năm 1966; (vắng mặt)

Địa chỉ: ấp M, xã N, huyện P, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn Nguyễn Thị Hồng X trình bày: Giữa chị Nguyễn Thị Hồng X và anh Nguyễn Văn D kết hôn năm 1990, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện P, tỉnh Tiền Giang, ngày 01/10/1993. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, trong quá trình chung sống thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm. Gia đình hai bên đã hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không đạt được kết quả. Chị X và anh D đã sống ly thân từ năm 2015 cho đến thời điểm hiện tại, cuộc sống vợ chồng tự ai nấy lo, không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Vì thế về tình cảm vợ chồng không còn nên chị X yêu cầu được ly hôn anh D;

Về con chung: Có 03 con chung Nguyễn Quốc N, sinh năm 1991, Nguyễn Quốc T, sinh năm 1996 và Nguyễn Thị Như N, sinh ngày 13/7/2003. Chị X yêu cầu được nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thị Như N, anh D không phải cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung: Tự thoả thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Bị đơn Nguyễn Văn D trình bày: Thống nhất về lời trình bày của chị X về thời gian kết hôn. Trong cuộc sống vợ chồng có mâu thuẫn nhưng chỉ là mâu thuẫn nhỏ trong gia đình. Anh D còn thương vợ con nên không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Thống nhất cùng lời trình bày của chị X về con chung, hiện tại cháu Ngọc đang sống cùng chị X. Vì anh D không đồng ý ly hôn nên không có ý kiến gì đối với yêu cầu của chị X về con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Thống nhất cùng lời trình bày của chị X và không có ý kiến.

Tại phiên tòa: Chị Nguyễn Thị Hồng X vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; Anh Nguyễn Văn D vắng mặt không lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang phát biểu ý kiến trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân Sự. Về nội dung vụ án đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Hồng X và con chung. Chị X phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án; Sự có mặt, vắng mặt đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy:

Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Hồng X thì vụ án thuộc quan hệ pháp luật tranh chấp “Ly hôn” được quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án;

Xét trong quá trình thụ lý vụ án, hòa giải và chuẩn bị xét xử, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Nguyễn Văn D theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân Sự, anh D vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ các điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng Dân Sự xét xử vắng mặt anh D.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Hồng X về việc được ly hôn anh Nguyễn Văn D, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Căn cứ vào lời trình bày, các chứng cứ do đương sự cung cấp thì giữa chị Nguyễn Thị Hồng X và anh Nguyễn Văn D kết hôn năm 1990, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện P, tỉnh Tiền Giang, ngày 01/10/1993. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, trong quá trình chung sống thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm. Gia đình hai bên đã hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không đạt được kết quả. Chị X và anh D đã sống ly thân từ năm 2015 cho đến thời điểm hiện tại, cuộc sống vợ chồng tự ai nấy lo, không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau.

Căn cứ vào biên bản xác minh ngày 17/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang về tình trạng hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Hồng X và anh Nguyễn Văn D nhưng không xác định được tình trạng hôn nhân giữa chị X và anh D vì không có yêu cầu hòa giải tại cơ sở;

Căn cứ vào biên bản hoà giải ngày 24/02/2020, anh D thừa nhận anh D đang sống tại ấp Thanh Kiết, xã An Thạnh Thuỷ, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang còn chị Nguyễn Thị Hồng X đã về nhà cha mẹ ruột sinh sống tại ấp M, xã N, huyện P, tỉnh Tiền Giang từ năm 2015 cho đến thời điểm hiện tại. Anh D đã nhiều lần yêu cầu chị X về sống chung nhưng chị X không đồng ý. Anh D cũng không có biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng;

Vì thế Hội đồng xét xử xét thấy cuộc sống vợ chồng giữa chị X và anh D không còn hạnh phúc, cuộc sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được cho nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Nguyễn Thị Hồng X.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Hồng X về việc yêu cầu được quyền tiếp tục trực tiếp. chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, anh D không phải cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Căn cứ lời trình bày của đương sự thì giữa chị X và anh D có 03 con chung Nguyễn Quốc N, sinh năm 1991, Nguyễn Quốc T, sinh năm 1996 và Nguyễn Thị Như N, sinh ngày 13/7/2003. Nguyễn Quốc N, Nguyễn Quốc T đã trưởng thành, Nguyễn Thị Như N hiện tại đang sống cùng chị X, chị X là người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng;

Căn cứ vào nguyện vọng của con chung Nguyễn Thị Như N thì con chung muốn sống cùng chị X nên cần tôn trọng ý kiến của con chung;

Các đương sự đều là lao động phổ thông, thu nhập ở mức trung bình, có nơi cư trú ổn định, do đó về điều kiện nuôi con chung thì chị X và anh D đều có quyền ngang nhau;

Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy để đảm bảo cuộc sống ổn định của con chung không bị thay đổi liên tục môi trường nuôi dưỡng sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ em, hiện tại con chung do chị X là người đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho nên cần tiếp tục giao con chung Nguyễn Thị Như N, sinh ngày 13/7/2003 cho chị X tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Chị X không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Hồng X phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định.

Đối với đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và Gia đình. Căn cứ các điều 92, 147, 220, 227, 228, 233, 235 Bộ luật Tố tụng Dân Sự;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Căn cứ Luật Thi hành án Dân sự.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Nguyễn Thị Hồng X. Chị Nguyễn Thị Hồng X được quyền ly hôn anh Nguyễn Văn D.

2. Về con chung: Tiếp tục giao con chung Nguyễn Thị Như N, sinh ngày 13/7/2003 cho chị Nguyễn Thị Hồng X, trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh D không phải cấp dưỡng nuôi con;

Anh Nguyễn Văn D được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được quyền ngăn cản.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Hồng X phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị X đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0003273 ngày 19/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự được quyền kháng cáo đến Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thực hiện theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 183/2020/HNGĐ-ST ngày 08/05/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:183/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về