Bản án 182/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 182/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/10/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 25 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 206/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 9 năm 2019 về ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4174/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Bao Bách Q, nơi cư trú: CANADA; vắng mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Bà Lê Thị Thanh D, nơi cư trú: Số X đường B, phường H, quận H, Hải Phòng; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn, nguyên đơn là ông Bao Bách Q trình bày: Ông và bà Lê Thị Thanh D xây dựng gia đình với nhau do tự nguyện và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng năm 2008. Đến đầu năm 2011, ông có quay lại thăm gặp bà Lê Thị Thanh D rồi sau đó ông trở về Canada sinh sống và làm việc cho đến nay. Sau thời gian xa cách, giữa ông bà có trao đổi qua điện thoại và luôn xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, không thể dung hòa được. Nhận thấy ông bà không thể có được hạnh phúc bởi quan điểm và tính cách hai bên quá khác biệt nên ông yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Lê Thị Thanh D.

Về nuôi con chung và tài sản chung: Ông và bà Lê Thị Thanh D không có con chung, không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Hiện tại ông đang sinh sống và làm việc tại Canada nên rất bận và không thẻ có mặt tại Việt Nam để giải quyết vụ án được, do đó ông đề nghị Tòa án giải quyết và xét xử vắng mặt ông và ông ủy quyền cho bà Lê Thị Thanh D thay mặt ông nhận tất cả các giấy tờ, văn bản tố tụng của Tòa án.

Tại các bản tự khai, bị đơn là bà Lê Thị Thanh D trình bày: Thng nhất với lời trình bày của ông Bao Bách Q về quá trình kết hôn, mâu thuẫn vợ chồng, con chung, tài sản chung và bà cũng đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Bao Bách Q.

Ti phiên tòa: Bà Lê Thị Thanh D có mặt vẫn giữ nguyên quan điểm như trong cac ban tự khai. Ông Bao Bách Q văng măt co đơn đê nghi xet xư văng măt.

Ði diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử vụ án. Các đương sự được thực hiện đầy đủ quyền và ngĩa vụ của mình.

Về nội dung: Căn cứ vào tai liêu có trong hồ sơ, có cơ sở xác định: Sau khi kết hôn, ông Bao Bách Q và bà Lê Thị Thanh D mỗi người ở một nơi, sau gần 03 năm, năm 2011 ông Bao Bách Q quay về Việt Nam, sống cùng với bà Lê Thị Thanh D được khoảng một tháng, sau đó ông Bao Bách Q trở về Canada, từ đó đến nay, giữa hai ông bà chỉ trao đổi điện thoại và không có thời gian chung sống cùng nhau, không dành thời gian quan tâm, chăm sóc nhau. Đến nay, cả hai cùng xác định tình cảm vợ chồng không còn. Ðề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Bao Bách Q. Về con chung, tài sản chung: ông Quyền và bà Duyên không có nên không xem xét giải quyết. Ông Bao Bách Q phải chịu án phí theo quy định của pháp luật

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của đương sự, quan điểm của Đai diên Viện Kiểm sát tại phiên tòa, xét thấy:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Ông Bao Bách Q và bà Lê Thị Thanh D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng ngày 26 tháng 12 năm 2008, theo quy định tại Điều 9, 11 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đây là hôn nhân hợp pháp. Ông Bao Bách Q hiện đang sinh sống tại Canada, theo quy định tại khoản 3 Điều 35, điêm a khoản 1 Điều 39, điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về sư vắng mặt cua nguyên đơn : Ông Bao Bách Q là nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng tiến hành xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn.

[3] Về hôn nhân: Căn cư vao lơi khai cua Ông Bao Bách Q và bà Lê Thị Thanh D có đủ cơ s ở kết luận : Sau khi kêt hôn , ông Bao Bách Q và bà Lê Thị Thanh D mỗi người ở một nơi, sau gần 03 năm, năm 2011 ông Bao Bách Q quay về Việt Nam, sống cùng với bà Lê Thị Thanh D được khoảng một tháng, sau đó ông Bao Bách Q trở về Canada, từ đó đến nay, giữa hai ông bà chỉ trao đổi điện thoại và không có thời gian chung sống cùng nhau, không dành thời gian quan tâm, chăm sóc nhau. Đến nay, cả hai cùng xác định tình cảm vợ chồng không còn. Như vậy việc ông Bao Bách Q xin ly hôn là hoàn toàn chính đáng. Xét mâu thuẫn của ông Bao Bách Q và bà Lê Thị Thanh D đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần áp dụng Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chấp nhận đề nghị xin ly hôn của ông Bao Bách Q.

[4] Về nuôi con chung, tài sản chung: Cả ông Bao Bách Q và bà Lê Thị Thanh D đều thống nhất không có con chung, không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Bao Bách Q là nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo của các đương sự: Ông Bao Bách Q và bà Lê Thị Thanh D được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 4 Điều 207, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 266, Điều 273, điểm d khoản 1 Điều 469, Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Ông Bao Bách Q được ly hôn với bà Lê Thị Thanh D.

2. Về con chung và tài sản chung : Ông Bao Bách Q và bà Lê Thị Thanh D thống nhất không có con chung , không co tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Bao Bách Q phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đông (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai số 0008370 ngày 23 tháng 9 năm 2019 của Cục Thi hành án Dân sự thành phố Hải Phòing. Ông Bao Bách Q đã nộp đủ.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án:

Ông Bao Bách Q đươc quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Bà Lê Thị Thanh D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
  • Tên bản án:
    Bản án 182/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về ly hôn
  • Số hiệu:
    182/2019/HNGĐ-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hôn Nhân Gia Đình
  • Ngày ban hành:
    25/10/2019
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 182/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về ly hôn

Số hiệu:182/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về