Bản án 182/2017/HNGĐ-ST ngày 28/08/2017 về tranh chấp hôn nhân, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DUY XUYÊN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 182/2017/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2017 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 28/8/2017, tại trụ sở TAND huyện Duy Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 90/2017/TLST-HNGĐ ngày 08/5/2017 về “Tranh chấp hôn nhân, nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 17/7/2017 giữa các đương sự:

1-Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Đ, sinh năm 1983, địa chỉ thôn C, xã Duy S, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

2-Bị đơn: Anh Trần C, sinh năm 1989, địa chỉ thôn P, xã Duy T, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Chị Phạm Thị Đ và anh Trần C tự nguyện kết hôn và đăng ký tại UBND xã Duy T năm 2011. Trong thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẩn, nguyên nhân do anh C không có trách nhiệm với gia đình, thường xuyên cờ bạc và nghiện ma túy. Mặc dù đã được gia đình hòa giải nhưng anh C vẫn không thay đổi. Chị Đ thấy rằng mâu thuẩn vợ chồng đã quá trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên yêu cầu ly hôn anh C.

Vợ chồng có một con chung là Trần Phạm Duy V, sinh ngày 12/7/2012. Chị Đ yêu cầu nuôi cháu V và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện bị đơn:

Anh C thống nhất với ý kiến của chị Đ về thời gian, điều kiện kết hôn và nguyên nhân mâu thuẩn của vợ chồng. Theo anh C, hiện nay vợ chồng vẫn còn tình cảm nên không thống nhất ly hôn.

Vợ chồng có một con chung là Trần Phạm Duy V. Anh C đồng ý giao cháu V cho chị Đ nuôi dưỡng và anh cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ.

Tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết

Ý kiến của kiểm sát viên: TAND huyện Duy Xuyên thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án thực hiện các thủ tục tố tụng, xác định tư cách tố tụng theo đúng quy định; thời hạn chuẩn bị xét xử, việc chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu được đảm bảo. Hội đồng xét xử thực hiện các hoạt động tố tụng tại phiên tòa theo đúng quy định. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật khi tham gia tố tụng. Bị đơn không chấp hành đúng quy định pháp luật khi tham gia tố tụng. Việc xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định. Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Đ và anh C ly hôn; con chung giao cháu Trần Phạm Duy V cho chị Đ nuôi dưỡng.

Các tài liệu, chứng cứ của vụ án gồm:

-Bản chính giấy đăng ký kết hôn.

-Bản sao giấy khai sinh của cháu V.

-Biên bản xác minh tình trạng hôn nhân.

Các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, các tình tiết sự kiện các bên thống nhất:

-Thời gian, điều kiện kết hôn và mâu thuẩn của vợ chồng.

-Số con chung của vợ chồng.

Các tình tiết sự kiện các bên không thống nhất và ý kiến của các bên:

-Về việc ly hôn.

Ý kiến chị Đ: Hiện nay mâu thuẩn vợ chồng đã quá trầm trọng nên không đồng ý đoàn tụ.

Ý kiến anh C: Hiện tại mâu thuẩn vợ chồng chưa đến mức trầm trọng nên không đống ý ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1.Về hôn nhân: Chị Đ và anh C tự nguyện kết hôn năm 2011, có đăng ký tại UBND xã Duy T nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Trong các phiên hòa giải và tại phiên tòa, vợ chồng đều thừa nhận trong thời gian chung sống có xảy ra mâu thuẩn, do anh tình nghiện ma túy và thường xuyên cờ bạc, không có trách nhiệm với gia đình. Mặc dù đã được hòa giải nhiều lần nhưng chị Đ không đồng ý đoàn tụ. Hội đồng xét xử thấy rằng trong thời gian sống chung, anh C đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cho chị Đ ly hôn anh C.

2.Về nuôi con chung: Chị Đ và anh C thống nhất có một con chung là Trần Phạm Duy V, sinh ngày 12/7/2012 và thỏa thuận giao cháu V cho chị Đ nuôi. Hội đồng xét xử thấy sự thỏa thuận của anh chị là phù hợp nên cần được công nhận. Về cấp dưỡng nuôi con do chị Đ không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3-Về tài sản chung: các bên không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.

4.Về án phí: Chị Phạm Thị Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định “về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”, tuyên xử:

1-Về hôn nhân: Cho chị Phạm Thị Đ ly hôn anh Trần C.

2-Về nuôi con chung:

-Giao cho chị Phạm Thị Đ trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cháu Trần Phạm Duy V, sinh ngày 12/7/2012 cho đến tuổi trưởng thành.

-Chị Phạm Thị Đ và các thành viên trong gia đình không được ngăn cản anh Trần Cường trong việc thực hiện quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con.

3-Về án phí:

- Án hôn nhân gia đình sơ thẩm chị Phạm Thị Đ phải chịu 300.000đ, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ chị Đ đã nộp tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 0024051 ngày 05/5/2017 của Chi cục thi hành án dâ sự huyện Duy Xuyên

4-Chị Phạm Thị Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (28/8/2017). Anh Trần Cg có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 182/2017/HNGĐ-ST ngày 28/08/2017 về tranh chấp hôn nhân, nuôi con chung

Số hiệu:182/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Duy Xuyên - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về