Bản án 182/2017/HNGĐ-ST ngày 07/09/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỜ ĐỎ, TP. CẦN THƠ

BẢN ÁN 182/2017/HNGĐ-ST NGÀY 07/09/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 07 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 87/2017/TLST- HNGĐ ngày 22 tháng 5 năm 2017 về tranh chấp “Ly hôn và nuôi con chung”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 117/2017/QĐXX-ST ngày 03 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Tô Thị M, sinh năm 1990. (có mặt) Địa chỉ: Ấp An, xã Th, huyện C, thành phố C.

- Bị đơn: Anh Huỳnh Văn C, sinh năm 1988. (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp An, xã Th, huyện C, thành phố C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ly hôn đề ngày 20 tháng 4 năm 2017 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Tô Thị M trình bày: Do quen biết tự tìm hiểu nhau, chị M và anh Huỳnh Văn C tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn, giấy đăng ký kết hôn số 182, quyển 02, đăng ký kết hôn ngày 30/8/2012 tại Ủy ban nhân dân xã Thạnh Phú theo quy định của pháp luật. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc và có một con chung cháu Huỳnh Thị Tường V, sinh ngày 06/01/2013, hiện cháu V đang sống cùng với chị M. Từ khi mang thai và sinh con thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cự cãi dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, vợ chồng ly thân từ năm 2013 cho đến nay. Hiện tại, không ai quan tâm đến ai và anh C cũng đã có người phụ nữ khác. Nay, vợ chồng không thể hàn gắn nên chị M yêu cầu được ly hôn với anh C.

Về nuôi con chung: Chị M yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Huỳnh Thị Tường V, sinh ngày 06/01/2013 đến trưởng thành, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nghĩa vụ chung: Không có.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn anh Huỳnh Văn C vắng mặt không rõ lý do. Tuy nhiên, tại biên bản hòa giải cơ sở anh C thống nhất ly hôn với chị M.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Cho chị Tô Thị M được ly hôn với anh Huỳnh Văn C; Về nuôi con chung: Giao cháu Huỳnh Thị Tường V cho chị M nuôi dưỡng đến trưởng thành, ghi nhận chị M không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con; Tài sản chung, nghĩa vụ: Do anh C vắng mặt nên đề nghị tách ra giải quyết vụ kiện khác nếu sau này phát sinh tranh chấp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng dân sự: Theo đơn khởi kiện của chị Tô Thị M thì quan hệ tranh chấp của vụ án là “ Ly hôn và về nuôi con chung ” mà cụ thể chị M yêu cầu ly hôn với anh Huỳnh Văn C. Theo quy định tại Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ. Anh Huỳnh Văn C được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không rõ lý do. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, có căn cứ xét xử vắng mặt anh C.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Tô Thị M và anh Huỳnh Văn C là hợp pháp. Chị M và anh C tự nguyện tự tìm hiểu nhau và tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn chị M và anh C có thời gian chung sống hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không hiểu nhau, thường xuyên cự cãi dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, không ai quan tâm ai vợ chồng ly thân trong thời gian dài nhưng không thể hàn gắn được. Căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “ Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”. Hội đồng xét xử nhận thấy hôn nhân giữa chị M và anh C đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án anh C vắng mặt. Tuy nhiên, tại biên bản hòa giải cơ sở ngày 21/4/2017 ( BL 12) anh C thống nhất ly hôn với chị M. Căn cứ biên bản xác minh lập ngày 04/8/2017 ông Võ Phước Thế tổ trưởng tổ hòa giải ấp An Thạnh xác nhận ngày 21/4/2017 anh C có mặt tại buổi hòa giải và thống nhất ly hôn với chị M.

Từ những căn cứ, phân tích nêu trên Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị M. Cho chị Tô Thị M được ly hôn với anh Huỳnh Văn C.

[3] Về nuôi con chung: Cháu Huỳnh Thị Tường V, sinh ngày 06/01/2013 đang còn nhỏ tuổi, đang sống cùng với chị M nên tiếp tục giao cháu V cho chị M nuôi dưỡng đến trưởng thành, ghi nhận chị M không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung: Do anh C vắng mặt nên cần tách ra giải quyết thành vụ kiện khác nếu sau này các bên đương sự có phát sinh tranh chấp.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về nội dung giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[6] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Tô Thị M phải nộp 300.000đồng án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Tô Thị M. Cho chị M được ly hôn với anh Huỳnh Văn C.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Huỳnh Thị Tường V, sinh ngày 06/01/2013 cho chị M nuôi dưỡng đến trưởng thành, ghi nhận chị M không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

Dành quyền thăm nom chăm sóc giáo dục con chung cho anh C không ai có quyền cản trở. Tuy nhiên, anh C không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Nếu có thì chị M có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của anh C.

Vì lợi ích mọi mặt của con khi cần thiết có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nghĩa vụ chung: Tách ra giải quyết thành vụ kiện khác nếu sau này các bên đương sự có phát sinh tranh chấp.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Tô Thị M phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Chuyển tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 000289 ngày 22 tháng 5 năm 2017 thành tiền án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tiếp theo của ngày tuyên án, đối với đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 182/2017/HNGĐ-ST ngày 07/09/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:182/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cờ Đỏ - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về