Bản án 18/2021/HS-PT ngày 26/02/2021 về tội cố ý gây thương tích  

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 18/2021/HS-PT NGÀY 26/02/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH  

Ngày 26 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 02/2021/TLPT-HS ngày 05 tháng 01 năm 2021 đối với các bị cáo NHL, NTS và LVT do có kháng cáo của các bị cáo NHL, NTS, LVT đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. NHL; Sinh ngày: 01 tháng 01 năm 1992; Nơi sinh: Tỉnh Sóc Trăng; Nơi cư trú: Ấp S xã T, huyện L, tỉnh Sóc Trăng; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 05/12; Con ông Nguyễn Văn N và bà Phạm Thị N; Anh chị em ruột: có 07 người, lớn nhất sinh năm 1978, nhỏ nhất sinh năm 2000; Vợ, con: chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 02/10/2020 cho đến nay (có mặt).

2. NTS; Sinh năm 2000; Nơi sinh: Tỉnh Sóc Trăng; Nơi cư trú: Ấp S xã T, huyện L, tỉnh Sóc Trăng; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 6/12; Con ông Nguyễn Văn N và bà Phạm Thị N; Anh chị em ruột: có 07 người, lớn nhất sinh năm 1978, nhỏ nhất là bị cáo; Vợ, con: chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 15/5/2020 cho đến ngày 02/10/2020 bị bắt tạm giam, đến ngày 08/10/2020 được Tòa án cho bảo lĩnh (có mặt).

3. LVT; Sinh ngày 25 tháng 10 năm 2002; Nơi sinh: Tỉnh Sóc Trăng; Nơi trú: Ấp S xã T, huyện L, tỉnh Sóc Trăng; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 6/12; Con ông Lê Tuấn A và bà Nguyễn Ngọc G Anh chị em ruột: có 03 người, lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ nhất sinh năm 2013; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 15/5/2020 (có mặt)

- Những người dưới đây không liên quan đến kháng cáo Hội đồng xét xử phúc thẩm không triệu tập gồm: Bị hại là các ông (bà): ATP, KPT; Người làm chứng là các ông (bà) NLC1, NLC2, NLC3, NLC4 và NLC5

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các Tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ 00 phút, ngày 17 tháng 7 năm 2019 ATP cùng với bạn là KPT và NLC3, NLC1 đến quán nhậu tên I tại khóm B, phường T, TPS, tỉnh Sóc Trăng để nhậu với nhau. Trong quán lúc này còn có bàn nhậu của NHL cùng với em ruột của NHL là NTS nhậu với bạn gồm: LVT và NLC5. Do NLC1 quen biết với nhóm của NHL nên qua nói chuyện rồi ngồi xuống cùng uống bia chung, ATP và KPT cũng có qua bàn NHL uống giao lưu rồi trở về bàn của mình. Do thấy lâu quá NLC1 không về bàn nhậu nên ATP qua kêu NLC1 về và cụng ly với những người trong bàn của NHL nhưng NHL cụng xong để ly xuống mà không uống nên NLC1 kêu NHL là đã cụng thì phải uống thì NHL nói uống hết nổi nhưng NLC1 vẫn tiếp tục ép kêu NHL uống. Lúc này NHL nói với NLC1 là còn ép uống nữa là NHL sẽ cho NLC1 “ăn bạt tay”, nghe vậy ATP lên tiếng “Anh NLC1 (tên gọi khác: NLC1) đi chơi với tui ai mà dám đụng đến anh NLC1 thì tui kêu bằng ông nội”. Lúc này NHL dùng tay tát nhẹ vào mặt của NLC1 một cái. Thấy vậy ATP hỏi sao NHL đánh NLC1 thì NHL nói là NHL với NLC1 là bà con với nhau. Khi NHL nói xong ATP dùng tay tát vào mặt của NHL một cái và nói là ATP cũng giỡn thì NHL kêu ATP say rồi đi về bàn đi nhưng ATP không về mà tiếp tục dùng tay đánh vào lưng của NHL thêm một cái nữa. Thấy vậy NTS đang ngồi đối diện với ATP đứng lên nói “Anh tao giỡn mà mày làm gì đánh anh tao hoài vậy” thì ATP và NTS cự cãi định đánh nhau. Thấy sắp đánh nhau nên NLC1 cùng với Hòa bỏ chạy ra ngoài, còn ATP cầm ghế nhựa đang ngồi định đánh NTS thì NHL giật ghế bỏ ra rồi ôm ATP cản lại không cho đánh NTS. Cùng lúc này NTS cùng với LVT do tức giận chuyện ATP đánh NHL nên khi NHL ôm ATP thì NTS và LVT mỗi người cầm 01 chai bia có sẵn trên bàn nhào tới đánh ATP, trong đó LVT đánh trúng vào đầu vùng thái dương bên trái của ATP, còn NTS đánh trúng vào người của ATP gây thương tích. Bị đánh nên ATP đánh chống trả, đánh lại bằng tay, còn NTS và LVT tiếp tục dùng tay và vỏ chai bia đánh ATP trúng vào người, lúc này KPT đang nhậu ở bàn bên ngoài thấy ATP bị đánh nên chạy vào đánh NTS để giải cứu cho ATP nên NTS quay qua dùng chai bia đánh KPT nhưng KPT đỡ rớt chai bia rồi cả hai xông vào đánh nhau bằng tay và câu vật nhau dưới nền quán. Khi thấy NTS bị KPT đè dưới đất thì LVT cầm chai bia thủy tinh đánh vào vai của KPT một cái rồi bỏ chai bia xuống đất và quay qua thấy ATP đang đánh NHL nên LVT nhào tới đánh nhau bằng tay với ATP. Còn NHL lúc này thấy NTS vẫn đang bị KPT đè dưới đất nên NHL xô KPT ngã ra khỏi NTS rồi lấy 01 chai bia thủy tinh có sẵn trên bàn đánh vào đầu KPT một cái làm KPT chảy máu đầu, đánh xong NHL đập chai bia xuống nền quán làm vỡ chai bia rồi quay sang cùng LVT và NTS đánh nhau qua lại với ATP. Do bị nhiều người đánh nên ATP vùng bỏ chạy vào cửa bên hông nhà bếp và KPT cũng ngồi dậy bỏ chạy theo vào trong nhà bếp, lúc này NHL, NTS và LVT dùng một số chai bia ném theo hướng ATP và KPT chạy. Sau khi vào trong bếp ATP lấy một cây dao làm bếp cầm trên tay đứng thủ bên trong, còn KPT bị thương nên đứng nấp trong bếp, lúc này anh NLC2 là chủ quán nhậu I đứng ra can ngăn hai bên và chạy đến kéo cửa lưới sắt của nhà bếp lại để ngăn hai bên đánh nhau nhưng nhóm của NHL, NTS, LVT không dừng lại mà cả ba kéo các kết bia thủy tinh đã uống hết gần đó lại và ném liên tục khoảng hơn 30 vỏ chai bia về hướng ATP và KPT, những chai bia ném vào rơi xuống nền nhà bếp bằng xi măng làm cho những chai bia vỡ ra, những mãnh vỡ thủy tinh của vỏ chai bia văng trúng vào vùng mặt phần góc hàm trái, vùng dái tai trái, vùng nách phía bên trái của ATP, trúng vào vùng cung mày phải, vùng trán phải, vùng phía trước bình tai trái, vùng phía trước vùng vai trái của KPT gây thương tích. Nhận được tin báo, Công an phường T đến hiện trường, mời tất cả về trụ sở làm việc và đưa ATP và KPT đi cấp cứu. Quá trình điều tra NHL, NTS, LVT thừa nhận việc cùng nhau dùng tay, vỏ chai bia đánh, ném gây thương tích cho ATP và KPT như đã nêu trên.

- Theo Kết luận giám định pháp y về thương tích số 271 ngày 11/11/2019 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Sóc Trăng kết luận: ATP có dấu hiệu chính qua giám định:

+ Sẹo hình cung vùng mặt phần góc hàm trái, kích thước 07cm x 0,4cm, có ảnh hưởng thẩm mỹ vùng mặt, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 11%;

+ 05 sẹo phần mềm: Sẹo sau dái tai trái, kích thước 0,7cm x 0,1cm; sẹo xuôi vùng cổ trái kích thước 02cm x 0,5cm; sẹo vùng lưng bên phải, kích thước 01cm x 0,5cm; 02 sẹo vùng nách phía bên trái kích thước 03cm x 0,3cm và 1,5cm và 0,4cm, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 07%;

+ Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 17%. Kết luận khác: tổn thương do vật có cạnh sắc – nhọn gây nên, tổn thương vùng mặt gây ảnh hưởng thẩm mỹ, tổn thương không gây ảnh hưởng chức năng, tổn thương vùng đầu, mặt, cổ và thân mình là vùng gây nguy hiểm đến tính mạng.

- Theo Kết luận giám định pháp y về thương tích số 272 ngày 11/11/2019 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Sóc Trăng kết luận: KPT có dấu hiệu chính qua giám định:

+ 03 sẹo ảnh hưởng thẩm mỹ vùng mặt: sẹo chếch xuôi cung mày phải kích thước 04cm x 0,2cm; sẹo vùng trán phải kích thước 01cm x 0,1cm; sẹo mờ phía trước bình tai trái kích thước 1,5cm x 0,1cm, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 11%.

+ 02 sẹo phần mềm: sẹo mất tóc vùng đỉnh-chẩm trái, kích thước 03cm x 0,3cm; sẹo xuôi phía trước vùng vai trái kích thước 05cm x 0,5cm, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 04%.

+ Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 15%. Kết luận khác: Tổn thương do vật có cạnh sắc –nhọn gây nên, tổn thương vùng mặt gây ảnh hưởng thẩm mỹ, tổn thương không gây ảnh hưởng chức năng, tổn thương vùng đầu, mặt và thân mình là vùng gây nguy hiểm đến tính mạng Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2020/HS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh Sóc Trăng quyết định:

Căn cứ điểm d khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 17, Điều 58, khoản 1, Điều 54 Bộ luật hình sự đối với bị cáo NHL.

Căn cứ điểm d khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 17, Điều 58, khoản 1, Điều 54 Bộ luật hình sự đối với bị cáo NTS.

Căn cứ điểm d khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 17, Điều 58, khoản 1, Điều 54; Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự đối với bị cáo LVT.

Tuyên bố : Các bị cáo NHL, NTS, LVT phạm tội “Cố ý gây thương tích”;

1. Xử phạt bị cáo NHL 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02 tháng 10 năm 2020.

2. Xử phạt bị cáo NTS 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện thi hành án hoặc bắt bị cáo thi hành án nhưng được khấu trừ thời hạn tạm giam từ ngày 02/10/2020 đến ngày 08/10/2020.

3. Xử phạt bị cáo LVT 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện thi hành án hoặc bắt bị cáo thi hành án Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng và quyền kháng cáo của bị cáo và người tham gia tố tụng khác.

* Ngày 04/12/2020 các bị cáo NTS và LVT kháng cáo xin được hưởng án treo * Ngày 06/12/2020 bị cáo NHL kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo NHL bổ sung nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

- Bị cáo NTS và LVT bổ sung nội dung kháng cáo xin được hưởng án treo và xin giảm hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo và phạm vi xét xử phúc thẩm: Xét Đơn kháng cáo của các bị cáo NTS, LVT lập và nộp cho Tòa án nhân dân thành phố S vào ngày 04/12/2020; đơn kháng cáo của bị cáo NHL được nhà tạm giữ Công an thành phố S xác nhận vào ngày 06/12/2020 là đúng quy định về người kháng cáo, thời hạn kháng cáo, hình thức, nội dung kháng cáo theo quy định của các điều 331, 332 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tại phiên tòa bị cáo NHL bổ sung kháng cáo xin hưởng án treo; bị cáo NTS, LVT bổ sung kháng cáo xin giảm án. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ xem xét nội dung kháng cáo của các bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo NHL, NTS, LVT như sau: Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo NHL, NTS và LVT khai nhận vào khoảng hơn 21 giờ 00 phút, ngày 17 tháng 7 năm 2019, các bị cáo NHL, NTS và LVT đi nhậu tại quán nhậu I tại khóm B, phường T, thành phố S, trong quán còn có nhóm của các bị hại ATP và KPT cũng đang ăn uống tại đây ở bàn phía bên ngoài. Khi ATP qua bàn của NHL uống bia và để kêu NLC1 là người ngồi chung bàn với ATP và KPT về bàn của ATP thì xảy ra mâu thuẫn cự cãi với nhóm của NHL. ATP dùng tay đánh vào mặt và lưng của NHL 02 cái. Khi thấy NHL bị ATP dùng tay đánh, NTS và LVT tức giận lao tới dùng tay và chai bia thủy tinh đánh nhiều cái trúng vào đầu và người của ATP gây thương tích. Thấy ATP bị đánh nên KPT chạy đến đánh nhau với NTS để giải vây thì bị LVT dùng chai bia thủy tinh đánh trúng vào vùng vai một cái và NHL dùng chai bia thủy tinh đánh trúng vào vùng đầu của KPT một cái. Sau đó NHL, NTS, LVT tiếp tục quay qua dùng tay đánh trúng vào người ATP nhiều cái. Sau khi ATP và KPT bỏ chạy trốn vào bên trong nhà bếp của quán nhậu thì NHL, NTS, LVT tiếp tục dùng khoảng hơn 30 vỏ chai bia thủy tinh ném vào trong bếp, nhắm vào hướng của ATP và KPT đang đứng, làm cho một số mảnh vỡ thủy tinh của chai bia văng trúng vào người ATP và KPT gây thương tích. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể qua giám định của bị hại ATP là 17% và của bị hại KPT là 15%. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với nhau, phù với lời khai các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng và phù hợp các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra đã thu thập được. Do đó, Hội đồng xét xử sơ thẩm kết luận các bị cáo NHL, NTS, LVT phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của các bị cáo NHL, NTS và LVT về việc xin giảm nhẹ hình phạt. Xét thấy, khi lượng hình Hội đồng xét xử sơ thẩm đã xem xét tình tiết tăng nặng giảm nhẹ đối với các bị cáo NHL, NTS, LVT là: Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo thành khẩn khai báo, các bị cáo đã bồi thường xong cho các bị hại và được các bị hại làm đơn xin bãi nại, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, bị hại ATP có một phần lỗi, các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); ngoài ra đối với bị cáo LVT khi phạm tội là người chưa thành niên được áp dụng thêm Điều 91 và Điều 101 Bộ luật hình sự. Xét Hội đồng xét xử sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ như trên đối với các bị cáo là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật. Về mức hình phạt cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo NHL 03 năm tù, bị cáo NTS 03 năm tù và bị cáo LVT 02 năm tù là có căn cứ, tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo và phù hợp quy định pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo NHL, NTS và LVT không cung cấp được các tình tiết giảm nhẹ mới theo quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) hoặc các tình tiết giảm nhẹ mà cấp sơ thẩm chưa áp dụng cho các bị cáo. Do đó, không có cơ sở xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

[4] Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của các bị cáo NHL, NTS và LVT: Xét điều kiện để hưởng án treo của các bị cáo NHL, NTS và LVT thì thấy, các bị cáo bị xử phạt tù không quá 03 năm, các bị cáo có nhân thân tốt, có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Theo quy định của Nghị quyết 02/2018/NQ- HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì các bị cáo đủ điều kiện được hưởng án treo. Tuy nhiên, hành vi của các bị cáo nguy hiểm cho xã hội, loại tội phạm các bị cáo phạm phải đang có chiều hướng gia tăng trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, cần xử lý tù giam để nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm. Nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của các bị cáo NHL, NTS và LVT.

[5] Lời đề nghị của của Kiểm sát viên là áp dụng điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ Hội đòng xét xử phúc thẩm chấp nhận.

[6] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Do kháng cáo của các bị cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm

[7] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo yêu xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo NHL, NTS và LVT.

Không chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của các bị cáo NHL, NTS và LVT.

Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 109/2020/HS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.

*Căn cứ điểm d khoản 3 Điều 134; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 17, Điều 58, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo NHL.

*Căn cứ điểm d khoản 3 Điều 134; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 17, Điều 58, khoản 1, Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo NTS.

*Căn cứ điểm d khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 17, Điều 58, khoản 1, Điều 54; Điều 91, Điều 101 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo LVT.

Tuyên xử 1. Xử phạt bị cáo NHL 03 (ba) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày 02 tháng 10 năm 2020.

2. Xử phạt bị cáo NTS 03 (ba) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện thi hành án hoặc bắt bị cáo thi hành án nhưng được khấu trừ thời hạn tạm giam từ ngày 02/10/2020 đến ngày 08/10/2020.

3. Xử phạt bị cáo LVT 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện thi hành án hoặc bắt bị cáo thi hành án 4. Về án phí hình sự phúc thẩm:

- Căn cứ vào Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1, khoản 2 Điều 23 và Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Các bị cáo NHL, NTS, LVT, mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

5. Các phần quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

6. Bản án phúc thẩm này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

377
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2021/HS-PT ngày 26/02/2021 về tội cố ý gây thương tích  

Số hiệu:18/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về