Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 30/03/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 18/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 30 tháng 3 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài mở phiên Tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 532/2020/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/QĐXX-ST ngày 11 tháng 3 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 09/2021/QĐHPT-ST ngày 19 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự;

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị D – SN: 1980 (Có đơn xin vắng mặt)

- Bị đơn: Ông Ngô Văn B – SN: 1968 (Vắng mặt không có lý do) Cùng trú tại: Khu phố P, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước.

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện đề ngày 10 tháng 12 năm 2020 và quá trình giải quyết vụ án bà Phạm Thị D trình bày:

Bà và ông Ngô Văn B tự nguyện tìm hiểu, yêu thương nhau, không ai ép buộc, tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2001, có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại ủy ban nhân dân xã Đ, huyện K, tỉnh Ninh Bình.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, lý do mâu thuẫn là tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, không thống nhất được mọi việc trong gia đình về việc nuôi dạy con cái và kinh tế dẫn đến vợ chồng hay cải nhau. Bà D và ông B đã cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng nhiều lần nhưng không được.

Nay bà D xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, bà yêu cầu được ly hôn với ông B.

Về con chung: Trong thời gian chung sống bà D và ông B có 01 con chung là cháu Ngô Quang Đ, sinh ngày 15 tháng 12 năm 2003.

Do cháu Đ đã gần đủ 18 tuổi, cháu đã lớn và muốn ở với ai thì ở nên bà D không yêu cầu tòa án giải quyết về việc giao con cho ai.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 28 tháng 12 năm 2020, quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Ngô Văn B trình bày.

Về quan hệ hôn nhân: Ông thống nhất và đồng ý như lời trình bày của bà D về thời gian vợ chồng chung sống và đăng ký kết hôn.

Trong cuộc sống vợ chồng có những mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong lối sống dẫn đến vợ chồng thường cãi nhau, không có tiếng nói chung.

Nay bà D yêu cầu được ly hôn với ông thì ông đồng ý, tuy nhiên do vấn đề tài sản chung của vợ chồng chưa được giải quyết xong nên để ông thu xếp giải quyết vấn đề tài sản chung cho dứt điểm, sau đó ông sẽ ký biên bản ly hôn với bà D.

Về con chung: Thống nhất như lời tình bày của bà D về việc ông và bà D có 01 con chung là cháu Ngô Quang Đ, sinh ngày 15 tháng 12 năm 2003. Do cháu Đ đã lớn nên cháu muốn ở với ai thì ở. Do đó, ông không yêu cầu tòa án giải quyết về việc giao con chung cho ai.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu đầy đủ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Toà án nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền của Toà án: Đây là vụ án “Tranh chấp về ly hôn” do bà Phạm Thị D đứng đơn khởi kiện, bị đơn ông Ngô Văn B trú tại khu phố P, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước. Căn cứ khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt nguyên đơn và bị đơn. Xét thấy, vào ngày 11 tháng 3 năm 2021 nguyên đơn bà Phạm Thị D có đơn xin xét xử vắng mặt; Bị đơn ông Ngô Văn B vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án đã tiến hành tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng hợp lệ nên xem như ông B từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại Tòa. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bà D, ông B theo thủ tục chung.

[3]. Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào lời trình bày của bà D và ông B và những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định bà D và ông B kết hôn năm 2001 tại Uỷ ban nhân dân xã Đồng Hướng, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện. Căn cứ quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình thì hôn nhân giữa bà D và ông B là hôn nhân hợp pháp.

[4]. Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa bà D và ông B; Trong quá trình giải quyết vụ án cả bà D và ông B đều thừa nhận từ khi ông bà ở với nhau thì thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, tuy nhiên sau đó thì xảy ra mâu thuẫn, lý do mâu thuẫn là tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, không thống nhất được mọi việc trong gia đình về việc nuôi dạy con cái và kinh tế dẫn đến vợ chồng hay cải nhau. Bà D và ông B đã cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng nhiều lần nhưng không được. Bà D yêu cầu được ly hôn với ông B và ông B cũng đồng ý. Do đó, Hội đồng xét xử xác định mâu thuẫn giữa bà D và ông B là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không được duy trì nên Toà án chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà D.

[5]. Về con chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[6]. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[7]. Về án phí HNGĐ sơ thẩm: Bà Phạm Thị D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 35, Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị D về việc “Tranh chấp ly hôn” Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị D được ly hôn với ông Ngô Văn B (Bà D và ông B kết hôn ngày 15 tháng 01 năm 2001 theo giấy chứng nhận kết hôn số 12/2001 của Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện K, tỉnh Ninh Bình).

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Phạm Thị D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0025477 ngày 28 tháng 12 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đồng Xoài; Bà D đã nộp đủ án phí.

3. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 30/03/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:18/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về