Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 23/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 18/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng; xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 137/2020/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2020 về "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con và cấp dưỡng", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 18/01/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2021/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 02 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phan Thị Thùy T, sinh năm 1978 (Có mặt);

Địa chỉ: Số nhà 74/4 đường M, khóm 3, Phường 1, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

2. Bị đơn: Anh Khưu Thuận H, sinh năm 1977 (Vắng mặt);

Địa chỉ: Số nhà 74/4 đường M, khóm 3, Phường 1, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện ngày 12/5/2020 (BL 01) cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là chị Phan Thị Thùy T trình bày:

Năm 1999, chị T kết hôn với anh H và được Ủy ban nhân dân phường T, quận T, thành phố Cần Thơ cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 21/7/2003.

Sau khi kết hôn, chị T với anh H chung sống hạnh phúc được thời gian đầu, vợ chồng đã có 02 con chung là cháu Khưu Thị Phương A (Nữ), sinh ngày 02/7/2003 và Khưu Thị Phương Á (Nữ), sinh ngày 03/5/2006. Do bất đồng quan điểm làm phát sinh mâu thuẫn, tính cách không phù hợp nhau nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, tình cảm phai nhạt, không còn hạnh phúc nữa. Từ hơn 01 năm nay, chị T và anh H đã không còn sống chung, không còn tình cảm, trách nhiệm với nhau. Nay, chị T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Khưu Thuận H.

Về con chung: Cháu A có nguyện vọng được sống với cha, cháu A có nguyện vọng được sống cùng mẹ; chị T đồng ý để anh H trực tiếp nuôi dưỡng cháu A, yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Á; chị T có việc làm, thu nhập ổn định mỗi tháng trên 07 triệu đồng nên không yêu cầu anh H cấp dưỡng cho cháu Á, chị T sẽ cấp dưỡng cho cháu A tùy theo điều kiện.

Về tài sản chung và nợ chung: Tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Chứng cứ chị Trang giao nộp là Giấy chứng nhận kết hôn; bản sao Giấy chứng minh nhân dân, Sổ hộ khẩu, Giấy khai sinh của cháu Phương A và cháu Phương Á (BL 02-10).

- Đối với bị đơn Khưu Thuận H: Dù được tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, tại Thông báo đã thể hiện đầy đủ những tình tiết, sự kiện, tài liệu, yêu cầu khởi kiện của chị T nhưng anh H không phản đối, không có văn bản trình bày ý kiến của mình; anh H còn vắng mặt không có lý do trong các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Tòa án đã thông báo kết quả phiên họp trên cho anh H và đưa vụ án ra xét xử. Phiên tòa ngày 08/02/2021, bị đơn H vẫn vắng mặt và không giao nộp tài liệu, chứng cứ nên Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa, tiếp tục đưa vụ án ra xét xử theo luật định.

- Tài liệu, chứng cứ Tòa án thu thập được là Biên bản xác minh về cư trú, tình trạng hôn nhân, nguyên nhân phát sinh tranh chấp; sức khỏe, tình hình phát triển và nguyện vọng của cháu A, cháu Á (BL 23, 24, 25). Các đương sự không có ý kiến phản đối về tài liệu, chứng cứ do đương sự khác giao nộp và do Tòa án thu thập được.

- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa nêu quan điểm: Tòa án thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định chính xác quan hệ pháp luật tranh chấp; thu thập chứng cứ đầy đủ, đúng pháp luật; Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, đương sự đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T, cho chị T ly hôn với anh H; giao cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phương Á, giao cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phương A; chị T và anh H không phải cấp dưỡng cho con; không xem xét về tài sản và nợ chung do đương sự không yêu cầu; quyết định về án phí theo luật định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị T khởi kiện, yêu cầu ly hôn với anh Khưu Thuận H và giải quyết quyền nuôi con chung. Yêu cầu của chị T được pháp luật điều chỉnh tại các Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình; thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu quy định tại Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn Khưu Thuận H được triệu tập hợp lệ hai lần tham gia phiên tòa, đều vắng mặt không có lý do nên phải chịu hậu quả pháp lý về việc vắng mặt của mình. Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật và Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung giải quyết:

- Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn; bản sao Giấy chứng minh nhân dân, Sổ hộ khẩu, Giấy khai sinh của cháu A và cháu Á cũng như việc không phản đối của anh H và kết quả xác minh của Tòa án; đối chiếu với quy định tại điểm c Khoản 1, Khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử khẳng định lời trình bày của chị T về việc kết hôn với anh H, được Ủy ban nhân dân phường T, quận T, thành phố Cần Thơ cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 21/7/2003 và vợ chồng đã có 02 con chung là sự thật. Vì vậy, giữa chị T và anh H đang tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp, quy định tại Khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, từ đầu năm 2020 đến nay, dù không có thỏa thuận khác và cũng không vì yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội nhưng chị T và anh H không còn sống chung; người nào chỉ biết bổn phận của người đó, không cùng nhau thực hiện công việc gia đình, nuôi dạy con chung. Như vậy, chị T và anh H đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình; không còn thương yêu, tôn trọng lẫn nhau làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, cần áp dụng các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình giải quyết cho chị T được ly hôn với anh H.

- Thời điểm xét xử vụ án, cháu Phương A và Phương Á đều đã trên 07 tuổi, được học tập ổn định, phát triển bình thường về thể chất, trí tuệ; cháu A có nguyện vọng sống với anh H, cháu Á có nguyện vọng sống cùng chị T (BL 23, 24); đồng thời, chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Á, không yêu cầu anh H cấp dưỡng cho con, đồng ý để anh H trực tiếp nuôi dưỡng cháu A và chị T vẫn quan tâm, chăm lo, nuôi dưỡng cháu A bình thường tùy theo điều kiện thực tế.

Xét, quá trình chị T và anh H nuôi dưỡng con chung, chính quyền địa phương không phải can thiệp hỗ trợ, bảo vệ, chăm sóc các cháu; đồng thời, việc bày tỏ ý chí của cháu Phương A và cháu Phương Á là hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối hay ép buộc; chị T có việc làm, thu nhập ổn định khoảng trên 07 triệu đồng/tháng đảm bảo cuộc sống. Vì vậy, cần căn cứ Điều 58, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình giao cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Khưu Thị Phương Á; ghi nhận ý chí tự nguyện của chị T, về không yêu cầu anh H cấp dưỡng cho con; giao cho anh H được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Khưu Thị Phương A, chị T vẫn có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng cháu A theo quy định của pháp luật, anh H có thể yêu cầu chị T cấp dưỡng cho cháu A nếu có căn cứ.

- Nguyên đơn Phan Thị Thùy T khẳng định tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, nợ chung không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[3] Về án phí sơ thẩm: Chị T phải chịu 300.000 đồng, theo điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV, Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Toàn bộ quan điểm, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu là có căn cứ pháp lý và cơ sở thực tiễn như đã nhận định ở trên, Hội đồng xét xử cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đã nêu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 1 và Khoản 2 Điều 143, Khoản 3 Điều 144, Khoản 4 Điều 147, điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Phan Thị Thùy T được ly hôn với anh Khưu Thuận H.

2. Về con chung: Giao cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Khưu Thị Phương Á (Nữ), sinh ngày 03/5/2006; anh H không phải cấp dưỡng cho cháu Á. Giao cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Khưu Thị Phương A (Nữ), sinh ngày 02/7/2003; chị T vẫn có nghĩa vụ chăm lo cho cháu A. Trong thời gian chị T và anh H nuôi con, không ai được quyền ngăn cản sự thăm nom, chăm sóc và giáo dục của cha mẹ đối với con chung.

Vì quyền lợi về mọi mặt của cháu A và cháu Á, các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con nếu có căn cứ hợp pháp.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Nguyên đơn khẳng định tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, nợ chung không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Phan Thị Thùy T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng, theo Biên lai số 0003861 ngày 20/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Vĩnh Châu, chị Phan Thị Thùy T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Chị Phan Thị Thùy T có quyền kháng cáo đối với Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án; anh Khưu Thuận H có quyền kháng cáo trong thời hạn nêu trên kể từ ngày nhận được Bản án hoặc được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 23/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:18/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về