Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 22/09/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 18/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 140/2021/TLST - HNGĐ ngày 06 tháng 7 năm 2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị P, sinh năm 1988; địa chỉ: TDP B, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1982; địa chỉ: TDP B, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 06/6/2021 và những lời khai trong quá trình làm việc cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị P trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn D kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc vào ngày 17 tháng 12 năm 2005. Sau khi kết hôn chị P về chung sống cùng gia đình anh D tại TDP B, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc. Trong quá trình chung sống ban đầu tình cảm vợ chồng ban đầu hòa thuận, hạnh phúc sau đó đến khoảng năm 2014 vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không tin tưởng nhau về vấn đề tình cảm, anh D chơi bời cờ bạc, rượu chè nên dẫn đến thường xuyên cãi chửi nhau. Đến khoảng tháng 5 năm 2021 chị P bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở Tổ dân phố V, thị trấn B, huyện B. Hai vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay không quan tâm gì đến nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không có hạnh phúc, chị xin được ly hôn với anh Nguyễn Văn D.

Về con chung: Chị và anh D có 02 con chung là cháu Nguyễn Trần Minh N, sinh ngày 18/10/2009 và cháu Nguyễn Thị Thu S, sinh ngày 30/9/2016. Hiện cháu N đang ở cùng anh D, cháu S đang ở cùng chị P. Ly hôn, chị xin được tiếp tục nuôi cháu S còn đồng ý để anh D nuôi cháu N. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Phía bị đơn là anh Nguyễn Văn D vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại đơn trình bày anh xác nhận: Anh thừa nhận về thời gian kết hôn, quá trình vợ chồng chung sống như chị P trình bày là đúng. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng mâu thuẫn về mặt tình cảm. Trong thời gian sống ly thân anh và chị P không còn quan tâm, chăm sóc nhau. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị P làm đơn xin ly hôn, anh đồng ý.

Về con chung: Anh thừa nhận như chị P trình bày là đúng. Ly hôn, anh đồng ý để chị P tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Thị Thu S còn anh tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Trần Minh N. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, công nợ, đất canh tác và công sức: Các đương sự đều không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, nguyên đơn thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn không thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 51, 56, 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Nguyễn Thị P được ly hôn anh Nguyễn Văn D. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Thu S, sinh ngày 30/9/2016 cho chị Nguyễn Thị P trực tiếp nuôi còn giao cháu Nguyễn Trần Minh N, sinh ngày 18/10/2009 cho anh Nguyễn Văn D trực tiếp nuôi. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung; Về án phí: Giải quyết theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: chị Nguyễn Thị P có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn D, anh D hiện đang cư trú tại TDP B thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc. Do vậy, xác định đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tung dân sự Anh D có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Nguyễn Thị P và anh Nguyễn Văn D kết hôn với nhau ngày 17 tháng 12 năm 2005 trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn do luật định nên quan hệ hôn nhân này là hợp pháp. Trong quá trình chung sống tình cảm vợ chồng ban đầu bình thường sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị P là do vợ chồng không tin tưởng nhau về vấn đề tình cảm, anh D chơi bời cờ bạc, rượu chè nên dẫn đến thường xuyên xảy ra to tiếng, cãi chửi nhau, còn theo anh D nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng mâu thuẫn về mặt tình cảm. Đến tháng 5 năm 2021 mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng chị P bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở hai vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay không quan tâm gì đến nhau. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhhân không đạt được. Nay cả hai đều xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không có hạnh phúc nên đều đồng ý ly hôn. Do vậy, xét thấy yêu cầu xin ly hôn của chị P đối với anh D là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị P và anh D đều thừa nhận họ có 02 con chung là cháu Nguyễn Trần Minh N, sinh ngày 18/10/2009 và cháu Nguyễn Thị Thu S, sinh ngày 30/9/2016. Hiện cháu N đang ở cùng anh D, cháu S đang ở cùng chị P. Ly hôn, chị P và anh D đều thống nhất để chị P tiếp tục nuôi cháu S, để anh D tiếp tục nuôi cháu N. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Xét nguyện vọng xin nuôi con của các bên là chính đáng nên cần giao cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu S còn anh D trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu N. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản, công nợ, công sức và đất canh tác: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí: Chị P phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị P được ly hôn anh Nguyễn Văn D.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị P tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị Thu S, sinh ngày 30/9/2016, giao cho anh Nguyễn Văn D tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Trần Minh N, sinh ngày 18/10/2009. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Sau ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở, gây khó khăn.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị P phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí sơ thẩm nhưng được trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2020/0001447 ngày 6 tháng 7 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Xuyên.

4. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 22/09/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:18/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về