Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 07/05/2021 về ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 18/2021/HNGĐ-ST NGÀY 07/05/2021 VỀ LY HÔN 

Ngày 07 tháng 5 năm 2021 tại phòng xử án, Trụ sở Toà án nhân dân huyện Krông Pắc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 357/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2021/QĐXX- ST ngày 21 tháng 3 năm 2021 và quyết định hoãn phiên toà số 11/2020/QĐST-HNGĐ ngày 08/4/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hoa S, sinh năm: 1980- Có mặt Địa chỉ: Thôn A, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Bị đơn: Anh Nguyễn Tấn P, sinh năm: 1981- Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn Tân Q, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai,biên bản không tiến hành hòa giải được và tại phiên tòa chị Nguyễn Thị Hoa S trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hoa S và anh Nguyễn Tấn P đến với nhau trên cơ sở tình yêu tự nguyện, có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán của địa phương và đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 16/7/2018. Sau khi về chung sống thì vợ chồng hạnh phúc được một thời gian, sau đó thường xuyên phát sinh mâu thuẫn.

Nguyên nhân mâu thuẫn: Do cuộc sống chung của vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung. Mâu thuẫn vợ chồng thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng hay xảy ra cãi vã, xô xát nhau, anh P thường xuyên chơi bời, không lo tu chí làm ăn, chăm sóc gia đình. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, nên vào tháng 7 năm 2020 chị S đã nộp đơn khởi kiện xin ly hôn, nhưng sau đó Tòa án hòa giải cho vợ chồng về đoàn tụ, nên chị đã rút đơn khởi kiện và Tòa án đình chỉ vụ án.

Tuy nhiên, sau khi rút đơn khởi kiện thì vợ chồng vẫn không chung sống với nhau được và đã sống ly thân cho đến nay, không còn quan tâm chăm sóc nhau nữa.

Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị Nguyễn Thị Hoa S xin được ly hôn với anh Nguyễn Tấn P.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng không có con chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị Nguyễn Thị Hoa S xác định vợ chồng không có tài sản chung và công nợ chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

* Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Nguyễn Tấn P không đến tòa làm việc, nên Tòa án không lấy được lời khai bị đơn Nguyễn Tấn P.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và nội dung vụ án:

-Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử thẩm phán chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn chưa chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX, căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Hoa S được ly hôn với anh Nguyễn Tấn P.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị Hoa S và anh Nguyễn Tấn P không có con chung, nên đề nghị Tòa án không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: chị Nguyễn Thị Hoa S không yêu cầu, nên đề nghị HĐXX không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu đã có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền:

Về quan hệ tranh chấp: Căn cứ vào đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Hoa S đề ngày 02/10/2020, Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc xác định quan hệ pháp luật “Ly hôn” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của BLTTDS.

Về thẩm quyền: Tại thời điểm chị Nguyễn Thị Hoa S làm đơn khởi kiện, bị đơn anh Nguyễn Tấn P, cư trú tại thôn Tân Q, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc áp dụng điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[2] Về chấp hành quy định pháp luật: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt trực tiếp cho anh Nguyễn Tấn P thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập đương sự và niêm yết các văn bản tố tụng là đảm bảo việc cấp, tống đạt văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 177, Điều 179 BLTTDS. Tuy nhiên, anh Nguyễn Tấn P không tham gia tố tụng làm bản tự khai, cũng như không có mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các phiên hoà giải là từ bỏ quyền và không thực hiện nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa lần thứ nhất anh Nguyễn Tấn P vắng mặt, nên HĐXX đã hoãn phiên tòa và tống đạt quyết định hoãn phiên tòa cho anh Nguyễn Tấn P. Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn anh Nguyễn Tấn P vắng mặt không có lý do. Do vậy, HĐXX áp dụng Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, để xét xử vắng mặt bị đơn là đảm bảo đúng quy định pháp luật.

[4] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hoa S và anh Nguyễn Tấn P chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện. Có đăng ký kết hôn ngày 16/7/2018 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Sau một thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do quan điểm sống bất đồng, tháng 7 năm 2020 chị Nguyễn Thị Hoa S đã làm đơn xin ly hôn, nhưng sau đó Tòa án đã hòa giải cho vợ chồng về đoàn tụ, chị S đã rút đơn, nhưng sau đó vẫn không thể chung sống được với nhau và đã ly thân.

Quá trình tham gia tố tụng chị Nguyễn Thị Hoa S xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn. Anh Nguyễn Tấn P không có mặt tại Tòa án để trình bày quan điểm của mình.

Kết quả xác minh, chính quyền địa phương cung cấp: Mặc dù chính quyền địa phương không nắm rõ nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị Nguyễn Thị Hoa S và anh Nguyễn Tấn P, vì sau khi cưới thì chị S và anh P về chung sống với nhau tại nhà chị S, nên vợ chồng mâu thuẫn cụ thể như thế nào chính quyền địa phương không nắm rõ, chỉ biết anh Pthời gian gần đây, đã về tại nhà bố mẹ đẻ sinh sống, nhưng thường xuyên không có mặt tại nhà, còn đi đâu làm gì chính quyền địa phương không nắm rõ.

Tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình quy định:

“Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.” Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn giữa chị Nguyễn Thị Hoa S và anh Nguyễn Tấn P đã đến mức trầm trọng, vợ chồng sống ly thân từ giữa năm năm 2020 và chị S đã từng làm đơn xin ly hôn với anh P một lần nhưng sau đó được Tòa án hòa giải cho vợ chồng về đoàn tụ nên chị đã rút đơn, nhưng sau đó vợ chồng vẫn không thể chung số với nhau được, chị Nguyễn Thị Hoa S xác định tình cảm không còn và kiên quyết xin ly hôn.

Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Hoa S và anh Nguyễn Tấn P không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên cần chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Hoa S, cho chị Nguyễn Thị Hoa S được ly hôn với anh Nguyễn Tấn P.

Về con chung: Trong quá trình chung sống chị Nguyễn Thị Hoa S và anh Nguyễn Tấn P không có con chung nên Tòa án không đề cập giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án chị Nguyễn Thị Hoa S không yêu cầu, nên HĐXX không đề cập xem xét.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Hoa S phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Xét thấy quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa là phù hợp, HĐXX cần chấp nhận ý kiến của Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Hoa S được ly hôn với anh Nguyễn Tấn P.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị Hoa S và anh Nguyễn Tấn P không có con chung, nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: chị Nguyễn Thị Hoa S và anh Nguyễn Tấn P không yêu cầu, nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Hoa S phải chịu 300.000đ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2019/0016029 ngày 05/10/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc, tỉnh Đăk Lăk.

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hoa S được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể tử ngay tuyên án.

Bị đơn anh Nguyễn Tấn P được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 luật thi hành án dân sự, Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 07/05/2021 về ly hôn 

Số hiệu:18/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về