Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 02/03/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 18/2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/03/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 02 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện An Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 343/2020/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2020 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2021/QĐXXST- DS ngày 03 tháng 02 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1975 ĐKTT: Thôn K, xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Thị trấn T, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên tòa (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Ông Trần Văn T, sinh năm 1971.

Địa chỉ: Thôn K, xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tại các bản tự khai, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị B trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Trần Văn T kết hôn với nhau do tự nguyện và có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND phường B, quận K, thành phố Hải Phòng vào năm 1994. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống cùng nhau tại thị trấn T, huyện A, thành phố Hải Phòng; đến năm 2015 vợ chồng chuyển về sống tại thôn K, xã Q, huyện A. Quá trình chung sống, hai bên hoà thuận, hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, tính cách không hợp nên xảy ra va chạm cãi, chửi nhau, mâu thuẫn căng thẳng nên từ tháng 5 năm 2020, bà đã về nhà bố mẹ đẻ ở thị trấn T, huyện A, vợ chồng sống ly thân, hiện tại cả hai không ai quan tâm và trách nhiệm với nhau. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Toà án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Trần Văn T.

Về con chung: Vợ chồng có 04 con chung Trần Thị Diệp A, sinh năm 1995 (đã trưởng thành); Trần Thị T Anh, sinh ngày 07/9/2003; Trần Nguyễn Kim N, sinh ngày 02/5/2011 và Trần Quốc T, sinh ngày 15/11/2013. Ly hôn bà đề nghị Tòa án giao các con chung Trang A và Kim N cho bà trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Trần Quốc T cho ông T nuôi dưỡng; việc cấp dưỡng nuôi con do bà và ông T tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản: Bà Nguyễn Thị B không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về tài sản.

Tại các bản tự khai, trong quá trình tố tụng, bị đơn ông Trần Văn T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Về thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn, địa điểm chung sống của vợ chồng như bà Nguyễn Thị B đã trình bày là đúng. Quá trình chung sống, vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, do mâu thuẫn căng thẳng nên vợ chồng chị sống ly thân từ giữa năm 2020, bà Bình về nhà bố mẹ đẻ ở thị trấn T, huyện A, thành phố Hải Phòng. Trong thời gian sống ly thân, ông đã có nhiều biện pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả. Ông xác định mâu thuẫn vợ chồng chưa đến mức trầm trọng, nên trước yêu cầu xin ly hôn của bà Bình ông không đồng ý, ông đề nghị Tòa án hòa giải đề vợ chồng đoàn tụ;Về con chung: Vợ chồng có 04 con chung như bà Nguyễn Thị B trình bày là đúng; Nếu trường hợp phải ly hôn, ông đề nghị Tòa án giao con chung Trần Nguyễn Kim N và Trần Quốc T cho ông nuôi dưỡng, giao con chung Trần Thị T Anh cho bà B nuôi dưỡng, con chung Trần Thị Diệp A, sinh năm 1995 đã trưởng thành; việc cấp dưỡng nuôi con do ông và bà B tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Ông Trần Văn T không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. định:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương phát biểu ý kiến khẳng - Về việc tuân theo pháp luật về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt nhiều lần, không có lý do nên đã không chấp hành các điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 39 Bộ luật Dân sự, các điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình: Về quan hện hôn nhân: Xử cho bà Nguyễn Thị B ly hôn với ông Trần Văn T; về con chung, căn cứ các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình, xử giao con chung Trần Thị T Anh, sinh ngày 07/9/2003; Trần Nguyễn Kim N, sinh ngày 02/5/2011 cho bà Bình trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Trần Quốc T, sinh ngày 15/11/2013 cho ông Thanh nuôi dưỡng; con chung Trần Thị Diệp A đã trưởng thành tự quyết định cuộc sống; việc cấp dưỡng nuôi con do các bên đương sự tự thỏa thuận; thời hạn nuôi con chung tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về tài sản: Do đương sự không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết. Về án phí: Bà Nguyễn Thị B phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về việc xét xử vắng mặt của các đương sự:

[1] Bị đơn, ông Trần Văn T đã được Toà án tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng thủ tục tố tụng nhưng ông T vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn, ông Trần Văn T.

- Về quan hệ hôn nhân:

[2] Căn cứ lời khai của các bên đương sự, các tài liệu, chứng cứ khác do nguyên đơn cung cấp và do Tòa án thu thập có trong hồ sơ vụ án đã xác định bà Nguyễn Thị B và ông Trần Văn T kết hôn với nhau do tự nguyện và có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND phường B, quận K vào năm 1994. Quá trình chung sống, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp; vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2020, không ai quan tâm đến ai. Mặc dù ông Thanh đã có nhiều biện pháp khắc phục để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị B và ông Trần Văn T đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho bà Nguyễn Thị B được ly hôn với ông Trần Văn T. Ông Trần VănThanh không đồng ý ly hôn nhưng không có giải pháp để khắc phục tình trạng mâu thuẫn của vợ chồng nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu của ông Trần Văn T.

- Về con chung:

[3] Vợ chồng có 04 con chung Trần Thị Diệp A, sinh năm 1995 đã trưởng thành; Trần Thị T Anh, sinh ngày 07/9/2003; Trần Nguyễn Kim N, sinh ngày 02/5/2011 và Trần Quốc T, sinh ngày 15/11/2013. Khi ly hôn, bà Bình đề nghị giao con chung Trần Thị T Anh và Trần Nguyễn Kim N cho bà nuôi dưỡng, giao con chung Trần Quốc T cho ông T nuôi dưỡng. Còn ông T đề nghị giao con chung Trần Thị T Anh cho bà Bình nuôi dưỡng, giao con chung Nguyễn Kim N và Trần Quốc T cho ông nuôi dưỡng.

[4] Xét thấy việc nuôi con chung vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của cha mẹ, việc giao con chung cho ai nuôi dưỡng cũng phải đảm bảo cho con chung được nuôi dạy trong điều kiện tốt nhất; điều kiện nuôi con của các bên là ngang nhau nên cần chấp nhận yêu cầu của bà Bình, giao con chung Trần Thị Tranh Anh và Trần Nguyễn Kim N cho bà Bình nuôi dưỡng, cũng là phù hợp với nguyện vọng của con chung; giao con chung Trần Quốc T cho ông Thanh nuôi dưỡng; con chung Trần Thị Diệp A đã trưởng thành tư quyết định cuộc sống.

[5] Việc cấp dưỡng tiền nuôi con chung do các bên đương sự tự thỏa thuận, Tòa án không xem xét, giải quyết. Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung:

[6] Do các đương sự không có yêu cầu nên Toà án không xem xét, giải quyết. Nếu các bên đương sự có tranh chấp về tài sản, Tòa án s xem xét giải quyết b ng vụ án dân sự khác khi đương sự có yêu cầu.

- Về án phí:

[5] Bà Nguyễn Thị B phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; các điều 143 và 147 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự;

- Căn cứ các điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ các điều 6, 7, 9 và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016, Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho bà Nguyễn Thị B ly hôn với ông Trần Văn T.

2. Về con chung: Giao con chung Trần Thị T Anh, sinh ngày 07/9/2003 và Trần Nguyễn Kim N, sinh ngày 02/5/2011 cho bà Nguyễn Thị B trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chungTrần Quốc T, sinh ngày 15/11/2013 cho ông Trần Văn T trực tiếp nuôi dưỡng; việc cấp dưỡng tiền nuôi con chung do các bên đương sự tự thỏa thuận, Tòa án không xem xét, giải quyết.

Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Bà Nguyễn Thị B phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước. Bà Nguyễn Thị B đã nộp số tiền 300.000đ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương (theo Biên lai thu tiền số 0012828 ngày 15 tháng 10 năm 2020) nên không phải nộp nữa.

Các đương sự vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 02/03/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:18/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về