Bản án 18/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 18/2020/HS-ST NGÀY 27/05/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Trong ngày 27 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 13/2020/TLST-HS ngày 11 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vương Văn H, sinh năm 1986; Tên gọi khác: Vương Văn H1; Nơi cư trú: Khóm B, thị trấn TB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vương Văn M và bà Hữu Kim A (đã chết); có vợ Trương Bảo N và 01 người con sinh năm 2012; tiền án: 02 (Tại bản án hình sự sơ thẩm số 14/2008/HSST ngày 17/02/2008 của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, áp dụng điểm i khoản 1, khoản 2 Điều 104, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 BLHS, phạt 02 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/5/2009 theo giấy xác nhận số 03/XN-CHA ngày 09/01/2020 của Trại giam Cái Tàu và Tại bản án hình sự phúc thẩm số 236/2012/HSPT ngày 16/11/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau, áp dụng điểm d, đ khoản 2 Điều 133, điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS, phạt 08 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt của bản án số 30/2012/HSST ngày 05/4/2012 của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình xử phạt 02 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Hình phạt chung của 02 bản án buộc bị cáo Vương Văn H phải chấp hành hình phạt là 10 năm tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/4/2018 theo giấy xác nhận số 03/XN-CHA ngày 09/01/2020 của Trại giam Cái Tàu; chưa được xóa án tích); tiền sự: Không; Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 26/12/2019; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Vương Văn H (Vương Văn H1): Ông Nguyễn Trung K là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Cà Mau (có mặt).

2.2. Bị hại: Anh Nguyễn Phúc S, sinh năm 1994 (đã chết) Địa chỉ: Khóm A, thị trấn TB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1964 và bà Phan TB, sinh năm 1964 (có mặt) Cùng địa chỉ: Khóm A, thị trấn TB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.

2.3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Phan Văn Đ, sinh năm 1987 (có mặt) Địa chỉ: Ấp C, xã TB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 19 giờ ngày 20/10/2019, Vương Văn H (tên gọi khác Vương Văn H1) sau khi tham dự đám kỵ cơm nhà anh Nguyễn Văn L ở ấp C, xã TB, H điều khiển xe môtô biển số đăng ký 69D1-017.44 chở anh Phan Văn Đ đi về nhà của H, khi xe đi đến đoạn đường ĐT983B Thới Bình-U Minh thuộc khu vực khóm B, thị trấn Thới Bình, H điều khiển xe không đi về bên phải theo chiều đi của mình đụng vào xe môtô biển số đăng ký 69D1-443.08 do anh Nguyễn Phúc S trực tiếp điều khiển chạy ngược chiều. Tai nạn xảy ra làm anh S tử vong, H bị thương tích nặng, anh Đ bị thương tích nhẹ, 02 xe bị hư hỏng.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông lập lúc 20 giờ ngày 20/10/2019 tại khóm B, thị trấn Thới Bình đã xác định hiện trường còn nguyên vẹn: Đoạn đường xảy ra tai nạn là đường 02 chiều, không có dãy phân cách, tim đường có vạch kẻ đường màu trắng, liền nét, nằm trong đoạn báo hiệu đường cong, mặt đường bằng phẳng, bằng nhựa. Chọn hướng khám nghiệm từ hướng Cầu Treo thị trấn TB đi đến đường Hàng lang ven biển phía Nam. Chọn mép đường bên phải làm chuẩn để đo đạc. Chiều rộng mặt đường 06m, khoảng cách từ tâm vùng đụng vào mép đường là 02m, đến tim đường là 01m; khoảng cách từ tâm vùng đụng đến đầu nạn nhân Nguyễn Phúc S là 0,40m, đến tâm bánh sau của xe 69D1-443.08 là 1,30m, đến tâm bánh trước xe 69D1-017.44 là 1,45m; khoảng cách từ đỉnh đầu nạn nhân Nguyễn Phúc S đến tâm bánh sau xe 69D1-443.08 là 1,05m, vào mép đường là 2,45m; khoảng cách từ tâm bánh sau xe 69D1-443.08 vào mép đường là 03m; khoảng cách từ tâm bánh trước xe 69D1- 443.08 vào mép đường là 2,90m; khoảng cách từ tâm bánh trước xe 69D1-443.08 đến tâm bánh trước xe 69D1-017.44 là 0,90m; khoảng cách từ tâm bánh trước xe 69D1- 017.44 vào mép đường 2,20m; khoảng cách từ tâm bánh trước xe 69D1-017.44 đến đỉnh đầu Vương Văn H là 1,10m, vào mép đường là 01m, khoảng cách từ tâm bánh trước xe 69D1-017.44 đến đỉnh đầu Phan Văn Đ là 1,70m, vào mép đường 1,90m; khoảng cách từ tâm bánh sau xe 69D1-017.44 vào mép đường 03m; tại vi trí phía dưới 02 xe có nhiều vết dầu, mỡ và mũ bể rải rác xung quanh; ốp lốc máy của xe 69D1- 017.44 bị bể rơi tại vị trí tâm vùng đụng; khoảng cách từ tâm vùng đụng đến trụ điện số 05 là 266m.

Tại biên bản khám nghiệm tử thi lập lúc 21 giờ ngày 20/10/2019 và Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 158-GĐPY/2019 ngày 28/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cà Mau kết luận: Nguyễn Phúc S có các tổn thương chính: Biến dạng giữa xương trán lún vào trong; gãy vỡ xương chính mũi; gãy vỡ xương hàm trên và hàm dưới; bầm tụ máu dưới da vùng trán sang đuôi mắt phải; nứt sọ phức tạp từ giữa trán sang hóc mắt phải lún vào trong có mãnh xương rời, kích thước 4cm x 2cm có máu và tổ chức não chảy ra ngoài. Nguyên nhân chết: Chấn thương sọ não hỡ.

Trách nhiệm dân sự: Trong giai đoạn điều tra, đại diện theo ủy quyền của gia đình bị hại là ông Nguyễn Văn T yêu cầu bị cáo H bồi thường chi phí mai táng, Sa xe tổng số tiền 97.526.000đ đồng và bồi thường tiền tổn tinh thần theo quy định của pháp luật, yêu cầu xử lý trách nhiệm hình sự đối với Vương Văn H theo quy định của pháp luật. Bị cáo H đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại được 5.000.000 đồng, tuy nhiên ông T không nhận nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thới Bình đã chuyển nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Bình theo biên lai số 0010039 ngày 18/12/2019. Riêng anh Phan Văn Đ tai nạn xảy ra anh bị thương tích nhẹ nên từ chối giám định thương tật và không yêu cầu H phải bồi thường trách nhiệm dân sự.

Vật chứng của vụ án: 01 xe mô tô biển số đăng ký 69D1-443.08 hiệu Suzuki, loại GSX150, màu sơn đỏ-đen (xe đã hư hỏng do tai nạn), Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho gia đình anh Nguyễn Phúc S (ông Nguyễn Văn T nhận); 01 xe mô tô biển số đăng ký 69D1-017.44, dán tem Sirius, màu sơn đen-vàng, số máy P50FMG916767, số khung G2PJBA916664, xe cũ, đã bị hư hỏng do tai nạn; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô 69D1-017.44 (bản chính); 01 áo sơ mi sọc caro xanh-trắng, dài tay, dính nhiều máu khô; 01 quần Jean màu xanh, dính nhiều máu khô. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thới Bình nhập kho vật chứng theo Lệnh nhập kho vật chứng số 58 ngày 11/11/2019.

Bản cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 10/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình truy tố bị cáo Vương Văn H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà:

- Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Rút truy tố bị cáo tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, phần còn lại giữ y Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng; điểm a khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, đề nghị tuyên bố bị cáo Vương Văn H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ: Phạt bị cáo H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị chấp nhận yêu cầu bồi thiệt của đại diện bị hại đối với các khoản chi phí hợp lí là 63.253.150 đồng, bồi thường tổn thất tinh thần từ 30 đến 40 tháng lương cơ bản.

Vật chứng: Đề nghị tiếp tục tạm giữ 01 xe mô tô biển số đăng ký 69D1-017.44, dán tem Sirius, màu sơn đen-vàng, số máy P50FMG916767, số khung G2PJBA916664, xe cũ, đã bị hư hỏng do tai nạn; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô 69D1-017.44 (bản chính) là tài sản của bị cáo để đảm bảo thi hành án; Trả lại cho đại diện bị hại 01 áo sơ mi sọc caro xanh-trắng, dài tay, dính nhiều máu khô; 01 quần Jean màu xanh, dính nhiều máu khô.

- Người bào chữa trình bày do bị cáo có hoàn cảnh khó kinh tế khó khăn, cha bị cáo lớn tuổi, mẹ bị cáo chết, trước đây gia đình bị cáo là hộ nghèo, trình độ học vấn thấp nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bị cáo thừa nhận các hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố và xin được giảm nhẹ hình phạt;

- Đại diện bị hại là ông T và bà TB yêu cầu bị cáo bồi thường về trách nhiệm dân sự và tổn thất tinh thần theo quy định của pháp luật; về vật chứng yêu cầu nhận lại 01 áo sơ mi sọc caro xanh-trắng, dài tay, dính nhiều máu khô; 01 quần Jean màu xanh, dính nhiều máu khô, không còn giá trị S dụng là tài sản của anh S.

- Anh Phan Văn Đ không có ý kiến gì về nội dung vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Vương Văn H điều khiển phương tiện xe môtô biển số 69D1-017.44 tham gia giao thông có giấy phép lái xe đúng theo quy định, H điều khiển xe không đi về bên phải theo chiều đi của mình đụng vào xe anh Nguyễn Phúc S chạy ngược chiều, làm anh S tử vong.

[3] Lời khai của bị cáo H tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình, phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án.

[4] Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Nhưng vì chủ quan, thiếu quan sát, xem thường tính mạng của người khác nên bị cáo điều khiển xe là nguồn nguy hiểm cao độ; bị cáo không đi đúng phần đường quy định, lấn sang phần đường của anh S dẫn đến va chạm trực tiếp vào anh S, gây hậu quả làm anh S tử vong. Do đó, hành vi của bị cáo H đã phạm vào tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự. Cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 10/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình truy tố bị cáo H là có căn cứ, đúng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[5] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo H là nguy hiểm cho xã hội, hành vi phạm tội của bị cáo làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự xã hội nói chung, tình hình an ninh trật tự xã hội của địa phương nói riêng, gây hoang mang lo sợ cho người dân khi tham gia giao thông. Bị cáo điều khiển xe khi trong người có nồng độ cồn, trong quá trình điều khiển xe do bị cáo chủ quan, thiếu quan sát, không đi đúng phần đường quy định, hậu quả xảy ra là đụng vào xe của anh S đang điều khiển ngược chiều dẫn đến tử vong, gây đau thương mất mát cho gia đình của anh S. Hành vi phạm tội của bị cáo làm ảnh hưởng đến tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo có nhân thân xấu, có hai lần bị kết án nhưng chưa được xóa án tích. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo nhằm răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung cho xã hội.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, mặc dù đại diện bị hại không nhận tiền nhưng bị cáo có khắc phục tiền cho gia đình bị hại, bị cáo có trình độ văn hóa thấp, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện bị hại là ông T và bà TB yêu cầu bị cáo bồi thường tiền mai tang phí, tiền mua đồ tươi tổ chức đám tang, tiền S xe tổng cộng là 97.526.000 đồng; yêu cầu bị cáo bồi thường tổn thất tinh thần theo quy định của pháp luật. Xét các khoản chi mai táng phí và tiền Sa xe là 63.253.150 đồng là hợp lý. Tại phiên tòa, bị cáo thống nhất bồi thường khoảng tiền này, đối với khoản tiền mua đồ tươi 34.273.000 đồng, pháp luật không quy định nên không được chấp nhận. Do đó, cần buộc bị cáo bồi thường cho đại diện bị hại chi mai táng phí và tiền Sa xe là 63.253.150 đồng. Đối với tiền tổn thất tinh thần, xét thấy bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên cần buộc bị cáo bồi thường tiền tổn thất tinh thần với mức 35 tháng lương cơ bản, tức 52.150.000 đồng là phù hợp. Tổng cộng các khoản bị cáo phải bồi thường cho đại diện bị hại là 115.403.150 đồng. Đối với số tiền bị cáo khắc phục cho gia đình bị hại hiện đang nộp tại chi cục Thi hành án là 5.000.000 đồng, tại tòa bị cáo tự nguyện dung số tiền này để khắc phục nên được đối trừ, còn lại bị cáo phải khắc phục tiếp cho đại diện bị hại 110.403.150 đồng.

[8] Về xử lý vật chứng: Các vật chứng gồm: 01 xe mô tô biển số đăng ký 69D1- 017.44, dán tem Sirius, màu sơn đen-vàng, số máy P50FMG916767, số khung G2PJBA916664, xe cũ, đã bị hư hỏng do tai nạn; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô 69D1-017.44 (bản chính), là tài sản của bị cáo nên cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Đối với 01 áo sơ mi sọc caro xanh-trắng, dài tay, dính nhiều máu khô; 01 quần Jean màu xanh, dính nhiều máu khô, không còn giá trị S dụng là tài sản của bị hại. Tại tòa, đại diện bị hại yêu cầu được nhận lại nên trả lại cho đại diện bị hại là phù hợp.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và S dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Điều 584, 585, 591 Bộ luật dân sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và S dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Vương Văn H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Phạt bị cáo Vương Văn H 01 (một) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt được tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Vương Văn H bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại là Nguyễn Văn T và bà Phạm TB số tiền 115.403.150 đồng (một trăm mười lăm triệu bốn trăm lẻ ba nghìn một trăm năm mươi đồng). Đối với số tiền bị cáo khắc phục 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) theo biên lai thu số 0010039 ngày 18/12/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình được đối trừ, bị cáo phải bồi thường tiếp cho đại diện bị hại 110.403.150 đồng (một trăm mười triệu bốn trăm lẻ ba nghìn một trăm năm mươi đồng).

Kể từ khi có quyết định và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

3. Về xử lý vật chứng:

Tiếp tục tạm giữ 01 xe mô tô biển số đăng ký 69D1-017.44, dán tem Sirius, màu sơn đen-vàng, số máy P50FMG916767, số khung G2PJBA916664, xe cũ, đã bị hư hỏng do tai nạn; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô 69D1-017.44 (bản chính) để đảm bảo thi hành án. Trả lại cho đại diện bị hại 01 áo sơ mi sọc caro xanh-trắng, dài tay, dính nhiều máu khô; 01 quần Jean màu xanh, dính nhiều máu khô, không còn giá trị S dụng (vật chứng hiện Cơ quan thi hành án dân sự huyện Thới Bình đang quản lý theo biên bản giao nhận ngày 24 tháng 3 năm 2020).

4. Nghĩa vụ chịu án phí, quyền kháng cáo và thi hành án:

Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Vương Văn H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hình sự: Bị cáo Vương Văn H 5.520.000 đồng (năm triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng, lấy tròn số).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa T thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án này là sơ thẩm, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:18/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về