Bản án 18/2020/HS-ST ngày 22/09/2020 về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐĂKTÔ, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 18/2020/HS-ST NGÀY 22/09/2020 VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 22 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện ĐăkTô, tỉnh Kon Tum, xét xử kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 17/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2019/HSST - QĐ ngày 07 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Ngọc P, tên gọi khác: Tèo, sinh năm 1992, tại: ĐăkTô, Kon Tum; hộ khẩu thường trú: Thôn 2, xã K, huyện C, tỉnh Kon Tum, nghề nghiêp: Làm nông; trình độ học vấn 9/12; Quốc tịch: Việt nam; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không. Con ông Lê Ngọc T và bà Tô Thị Kim L. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/4/2020 đến nay - Có mặt.

* Bị hại: Y N, sinh ngày 17/4/2004; Địa chỉ: Thôn T, xã V, huyện C, tỉnh Kon Tum - Vắng mặt.

* Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Chị Y Q, sinh năm 1998; địa chỉ: Thôn T, xã V, huyện C, tỉnh Kon Tum - Vắng mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Tô Thị Kim L, địa chỉ: Thôn 2, xã K, huyện C, tỉnh Kon Tum - Có mặt.

* Người làm chứng:

- Phạm Thành C, sinh ngày 29/02/2000; địa chỉ: Thôn 6, xã K, huyện C, tỉnh Kon Tum - Có mặt.

- Y LL, sinh ngày 30/12/2003; địa chỉ: Thôn T, xã V, huyện C, tỉnh Kon Tum - Vắng mặt.

- Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1968, địa chỉ: Thôn 6, xã K, huyện C, tỉnh Kon Tum - Vắng mặt.

* Người đại diện hợp pháp của người làm chứng chưa thành niên Y LL: Anh A H, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn T, xã V, huyện C, tỉnh Kon Tum - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 31/3/2020 Lê Ngọc P và Phạm Thành C rủ Y LL và Y N đi từ xã Văn Lem ra xã Kon Đào chơi. Khi đi đến rừng cao su thuộc thôn 6 xã Kon Đào Phạm Thành C và Y LL để Lê Ngọc P và Y N ở lại, C và LL đi mua đồ nhậu. Khi C và N vừa quay xe đi thì Lê Ngọc P kéo Y N vào chòi rẫy gần đó để quan hệ tình dục. Bị Y N từ chối nên Lê Ngọc P đã dùng hai tay đè Y N xuống đất, ngồi lên bụng, dùng tay sờ vào ngực, hôn vào cổ Y N. Do Y N khóc và la to nên P rút từ trong túi áo khoác ra một con dao đe dọa Y N để quan hệ tình dục. Bị cáo dùng tay kéo tụt quần Y N, tự cởi quần mình thực hiện việc quan hệ tình dục. Bị cáo cố tình đưa dương vật vào bên trong nhưng bị Y N chống cự, khép chân, lăn qua lăn lại nên bị cáo không đưa dương vật vào sâu bên trong được. Quan hệ được khoảng 3 phút thì bị cáo dừng lại định kéo Y N vào chòi rẫy để tiếp tục quan hệ tình dục nhưng Y N nói cần đi tìm dép và bỏ chạy về nhà anh Nguyễn Văn C ngủ nhờ. Sáng ngày hôm sau anh Nguyễn Văn C chở Y N cùng chị là Y Q đến Công an xã Kon Đào trình báo sự việc.

Kết luận giám định số 07/GĐ - PY ngày 03/4/2020 và bản giám định pháp y bổ sung số 11/GĐ-PY ngày 22/4/2020 của Phòng giám định pháp y tỉnh Kon Tum kết luận: Âm hộ, màng trinh, âm đạo, tầng sinh môn: Không thấy tổn thương; tử cung, phần phụ: Ít dịch túi cùng, âm tính với HIV, hiện tại không có thai.

Cáo trạng số 18/CT - VKS ngày 13/8/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐăkTô truy tố bị cáo Lê Ngọc P về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” theo điểm a khoản 1 điều 142 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện VKS vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm a khoản 1 điều 142, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51, điều 54; điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lê Ngọc P từ 05 đến 06 năm tù.

Lời nói sau cùng: Bị cáo biết việc làm của bị cáo là vi phạm pháp luật, bị cáo xin lỗi bị hại, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ĐăkTô, Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐăkTô, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì và cũng không khiếu nại gì về hành vi, Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Bị cáo Lê Ngọc P đã dùng dao đe dọa cháu Y N để quan hệ tình dục ngoài ý muốn của Y N. Tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi hiếp dâm cháu Y N 15 tuổi 11 tháng 14 ngày. Kết luận giám định số 07/GĐ - PY ngày 03/4/2020 và bản giám định pháp y bổ sung số 11/GĐ-PY ngày 22/4/2020 của Phòng giám định pháp y tỉnh Kon Tum kết luận: Âm hộ, màng trinh, âm đạo, tầng sinh môn: Không thấy tổn thương; tử cung, phần phụ: Ít dịch túi cùng, âm tính với HIV, hiện tại không có thai. Tại phiên tòa bị cáo Lê Ngọc P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với nội dung vụ án mà Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐăkTô đã truy tố.

[3] Hành vi dùng vũ lực đe dọa người bị hại để quan hệ tình dục trái ý muốn đối với cháu Y N 15 tuổi 11 tháng 14 ngày, đủ yếu tố cấu thành tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” quy định tại điểm a khoản 1 điều 142 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐăkTô truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng. Không những xâm phạm đến sự phát triển bình thường về sức khỏe, tâm sinh lý của trẻ em, gây tác hại đến sự phát triển về đạo đức, nhân cách, danh dự, nhân phẩm của người bị hại cả hiện tại và sau này mà còn gây hoang mang lo lắng cho một bộ phận thanh thiếu niên và nhân dân trên địa bàn. Ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm minh để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội. Sau khi sự việc được phát hiện bị cáo đã tích cực tác động gia đình bồi thường cho bị hại số tiền 5.000.000đ; bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Ngoài ra trong vụ án này còn có Phạm Thành C và Y LL là người đã cùng đi chơi với Y N và Lê Ngọc P. Việc bị cáo nảy sinh ý định hiếp dâm cháu Y N Phạm Thành C và Y LL hoàn toàn không biết. Khi bị cáo dùng dao đe dọa cháu Y N để quan hệ tình dục Phạm Thành C và Y N đi mua đồ nhậu, không có mặt tại hiện trường. Vì vậy, không có cơ sở xử lý trách nhiệm hình sự đối với Phạm Thành C và Y N .

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Bà Tô thị Kim L không yêu cầu bị cáo hoàn lại số tiền bà đã bồi thường cho người bị hại thay bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 01 con dao bằng kim loại bị cong vênh bị cáo dùng đe dọa người bị hại để quan hệ tình dục, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Xe mô tô BKS: 82U1 - 03021; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F1s:

01 sim điện thoại số thuê bao 0782.534.989. Đây là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bị cáo Lê Ngọc P, không liên quan đến hành vi phạm tội nên được trả lại cho bị cáo.

Toàn bộ vật chứng nêu trên có đặc điểm đúng như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan điều tra Công an huyện ĐăkTô và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện ĐăkTô lập ngày 01/9/2020.

[7] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ Điểm a khoản 1 điều 142; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51, điều 54; điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Lê Ngọc P phạm tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”.

Xử phạt bị cáo Lê Ngọc P 05 (năm) tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (01/4/2020).

* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu nên không xem xét.

* Về xử lý vật chứng của vụ án: Áp dụng điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a, khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 con dao bằng kim loại bị cong vênh không còn giá trị sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô BKS: 82U1 - 03021; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F1s; 01 sim điện thoại số thuê bao 0782.534.989.

Toàn bộ vật chứng nêu trên có đặc điểm đúng như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan điều tra C an huyện ĐăkTô và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện ĐăkTô lập ngày 01/9/2020.

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm c khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Lê Ngọc P phải nộp 200.000đ(Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (22/9/2020). Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

525
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2020/HS-ST ngày 22/09/2020 về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

Số hiệu:18/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Tô - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về