Bản án 18/2020/HNGĐ-ST ngày 04/06/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 18/2020/HNGĐ-ST NGÀY 04/06/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 04/6/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 603/2019/TLST- HNGĐ ngày 16/12/2019 về việc Ly hôntheo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 603/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 15/4/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 603/2020/QĐST-HNGĐ ngày 12/5/2020, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà T, sinh năm 1988; địa chỉ: Số K122/24 đường B, tổ 49, phường G, quận K, thành phố Đà Nẵng, có mặt.

* Bị đơn: Ông Đ, sinh năm 1986; địa chỉ: Số K122/24 đường B, tổ 49, phường G, quận K, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn là bà T trình bày:

Tôi và ông Đ tự nguyện kết hôn vào ngày 04/11/2016, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường G, quận K, thành phố Đà Nẵng. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại nhà số K122/24 đường B, tổ 49, phường G, quận K, thành phố Đà Nẵng. Chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp trong lối sống, tính cách và ông Đ thường xuyên đi làm ăn xa, ít khi về nhà nên không quan tâm, không có trách nhiệm với gia đình dẫn đến nên vợ chồng thường xảy ra bất hòa. Vì vợ chồng không có tiếng nói chung, không còn tin tưởng lẫn nhau nên đời sống hôn nhân không hạnh phúc. Đến nay, mâu thuẫn đã trầm trọng không thể giải quyết được, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài được nữa nên tôi đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn ông Đ.

Về con chung: Chúng tôi có 01 con chung là K, sinh ngày 15/10/2017. Tôi yêu cầu được trực tiếp nuôi con và yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000đ (ba triệu đồng).

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

* Bị đơn ông Đ không có mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án nên không có ý kiến trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa, nguyên đơn thay đổi một phần yêu cầu, cụ thể là không yêu cầu ông Đ đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng đã xác định: Những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng, bị đơn chưa tuân thủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho bà T ly hôn với ông Đ và giao con chung là K, sinh ngày 15/10/2017 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến tuổi thành niên, ông Đ không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi. Các vấn đề khác bà T xác định không có, không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Tranh chấp giữa bà T với ông Đ là tranh chấp về hôn nhân gia đình, bị đơn có địa chỉ cư trú ở địa bàn quận Thanh Khê nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, bị đơn ông Đ vắng mặt lần thứ hai không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung:

[2.1] Bà T và ông Đ kết hôn vào ngày 04/11/2016, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường G, quận K, thành phố Đà Nẵng, đây là hôn nhân tự nguyện và đảm bảo các quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên được thừa nhận và bảo vệ.

Trong quá trình chung sống, vợ chồng bà T và ông Đ đã phát sinh mâu thuẫn. Theo trình bày của bà T thì nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hòa hợp về tính tình, quan điểm sống, ông Đ thường xuyên đi làm ăn xa, không về nhà và không có trách nhiệm với gia đình dẫn đến vợ chồng thường xảy ra bất hòa. Hội đồng xét xử thấy rằng cuộc sống vợ chồng của bà T và ông Đ thực sự đã phát sinh mâu thuẫn và đã trầm trọng kéo dài cho đến nay. Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án đã tống đạt đầy đủ, hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Đ nhưng ông vẫn cố tình không đến Tòa án để làm việc chứng tỏ ông Đ cũng không có thiện chí và mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài và trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T về việc ly hôn với ông Đ là hoàn toàn phù hợp.

[2.2] Về con chung: Bà T và ông Đ có 01 con chung là K, sinh ngày 15/10/2017. Trong quá trình giải quyết vụ án, bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi con và yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000đ (ba triệu đồng). Tại phiên tòa hôm nay, bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, hiện nay, con chung của bà T và ông Đ đang dưới 36 tháng tuổi và đang do bà T trực tiếp nuôi dưỡng nên căn cứ khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và Gia đình để chấp nhận yêu cầu của bà T, giao con chung chưa thành niên cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi), ông Đ không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T xác định không có nên Hội đồng xét xử không đề cập.

[3] Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm bà T phải chịu 300.0000đ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ vào Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ vào Nghị Quyết 326 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T về việc “Ly hôn” đối với ông Đ.

Xử:

* Về quan hệ hôn nhân: Bà T được ly hôn với ông Đ.

* Về con chung: Giao con chung là K, sinh ngày 15/10/2017 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến tuổi thành niên (18 tuổi). Ông Đ không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

Bên không nuôi con vẫn có mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật.

* Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

2. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000 đồng bà T phải chịu, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng bà T đã nộp theo biên lai thu số 1609 ngày 16/12/2019 của Chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Bà T đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Án xử công khai, nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

327
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2020/HNGĐ-ST ngày 04/06/2020 về ly hôn

Số hiệu:18/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về