Bản án 18/2019/HSST ngày 30/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 18/2019/HSST NGÀY 30/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 30 tháng 01 năm 2019, tại Trụ sở Toà án nhân dân quận Long Biên, mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 20/2019/HSST ngày 18/01/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Hữu T, sinh năm 1993; ĐKNKTT và chỗ ở: Tổ X phườngG, quận L; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Con ông: Nguyễn Hữu T1; Con bà: Nguyễn Thị H, Vợ: Nguyễn Thu T2, có 02 con: Lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2018 01 tiền sự: Năm 2013, cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm cai nghiện số 03 Hà Nội

Bị cáo bị bắt giữ ngày 03/12/2018. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ- Côngan quận Long Biên. (Có mặt tại phiên toà)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thu T2, SN: 1997

HKTT tại: Tổ X phường G, quận L; Hà Nội (Có mặt tại phiên toà)

NHẬN THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21h25’ ngày 3/12/2018, tổ công tác Đội CSĐTTP về ma túy – Công an quận Long Biên làm nhiệm vụ tại đường dưới đường sắt khu vực ngã tư đường sắt với phố Đức Giang, phường Đức Giang, quận Long Biên, Hà Nội phát hiện 1 nam niên đi xe máy BKS 99B1-277.71 chở theo cháu nhỏ ngồi phía trước có biểu hiện nghi vấn nên đã dừng xe kiểm tra. Tại chỗ, nam thanh niên khai nhận tên là Nguyễn Hữu T– SN: 1993,

HKTT: Tổ X phường G, quận L; Hà Nội và cháu nhỏ ngồi phía trước là con trai của T.

Quá trình kiểm tra, tổ công tác phát hiện trên đồng hồ của chiếc xe có 01 túi nilon bên trong chứa tinh thể màu trắng, T khai nhận đó là ma túy đá, T mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong tang vật và đưa đối tượng về trụ sở để làm rõ.

Tang vật thu giữ của T gồm:

- 01 túi nilon bên trong có chứa tinh thể màu trắng

- 01 xe máy kiểu dáng wave BKS 99B1- 277.71

- 01 điện thoại di động Iphone đã qua sử dụng

Tại bản kết luận giám định ma tuý số 9185 ngày 11 tháng 12 năm 2018 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy loại methamphetamine. Khối lượng 0,193 gam.

Tại cơ quan cảnh sát điều tra Nguyễn Hữu Tkhai nhận:

Khoảng 21h10’ ngày 3/12/2018, T gọi điện thoại cho người đàn ông tên Hưng ( T không biết lai lịch cụ thể của Hưng) mua 300.000đ ma túy đá. Hưng hẹn T ra khu vực ngã tư giao cắt giữa phố Đức Giang, phường Đức Giang, quận Long Biên, Hà Nội và đường sắt để giao ma túy. Sau đó, T điều khiển xe máy nhãn hiệu Wave BKS 99B1-277.71 màu xanh chở theo Nguyễn Hữu B – SN: 2016 (là con trai của T) đến điểm hẹn Hưng. Khi đến khu vực ngã tư giao cắt giữa phố Đức Giang, phường Đức Giang, quận Long Biên, Hà Nội và đường sắt, T thấy Hưng điều khiển xe máy wave màu đỏ không BKS tiến gần đến chỗ T rồi dán túi nilon chứa ma túy vào mặt kính đồng hồ xe máy wave BKS: 99B1- 277.71 của T. Sau đó, T đưa cho Hưng 300.000đ tiền mua ma túy. Ngay sau khi Hưng đi khỏi khu vực trên thì T bị lực lượng công an kiểm tra. Quá trình kiểm tra, tổ công tác phát hiện trên đồng hồ của chiếc xe máy wave BKS: 99B1-277.71 có 01 túi nilon bên trong chứa tinh thể màu trắng, T khai nhận đó là ma túy đá, T mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong tang vật và đưa T về trụ sở để làm rõ.

Đối với nam thanh niên tên Hưng bán ma túy cho T do Tkhai không biết nhân thân lai lịch nên cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, xử lý.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Wave BKS 99B1-277.71 màu xanh, SK: NF1110M0070227, SM: NF110ME0070227 tạm giữ của T. Xác minh chiếc xe đăng ký tên Nguyễn Ngọc Đoàn, sinh năm: 1975, HKTT: Khu phố Đình, phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh vào tháng 4 năm 2016. Đến cuối năm 2016, Đoàn bán chiếc xe trên cho chị Nguyễn Thu T2 , sinh năm:1997, HKTT: Tổ X phường G, quận L; HàNội là vợ của Nguyễn Hữu T với giá 18.000.000đ.

Tại bản cáo trạng số 27/CT- VKS ngày 10/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố các bị cáo Nguyễn Hữu T về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự

Tại phiên toà:

- Bị cáo Nguyễn Hữu T thành khẩn khai nhận tội như đã khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo là đúng và không kêu oan, chỉ mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Chị Nguyễn Thu T2 trình bày: Nguồn gốc chiếc xe máy nhãn hiệu Wave BKS 99B1-277.71 là do chị bỏ tiền toàn bộ để mua. Bị cáo T không có công ăn việc làm nên không có tiền để chung tiền mua xe máy. Khi mượn xe để chở con đi chơi chị T2 không biết bị cáo T dùng xe để đi mua và tàng trữ trái phép chất ma tuý. Chị T có nguyện vọng đề nghị Hội đồng xét xử trả lại xe cho chị vì ngoài chiếc xe này chị không còn xe nào khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân quận Long Biên duy trì công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đề nghị như sau:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hỉnh sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” Xử phạt Nguyễn Hữu T mức án từ 16 th¸ng đến 20 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt tiền cho bị cáo.

Xử lý tang vật: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì bên trong có 0,193 gamMethamphetamine

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động Iphone đã qua sử dụng Trả lại cho chị Nguyễn Thu T2 01 xe máy nhãn hiệu Wave BKS: 99B1- 27771

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi tố tụng của Cơ quan CSĐT- Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến gì hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Hữu T tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, phù hợp với bản kết luận giám định, sơ đồ hiện trường cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 25’ ngày 03/12/2018, tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý- Công an quận Long Biên làm nhiệm vụ tại khu vực ngã tư giao cắt giữa phố Đức Giang và đường sắt đã phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Hữu T có hành vi tàng trữ trái phép 0,193 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Hữu T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đưa ra các chứng cứ buộc tội và truy tố bị cáo Nguyễn Hữu T với tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, tiếp tay cho các đối tượng mua bán ma tuý, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội và còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác.

Xét nhân thân bị cáo 01 tiền sự: Năm 2013, cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm cai nghiện số 03 Hà Nội. Tiền sự này đã hết thời hiệu nhưng chứng tỏ bị cáo đã được cơ quan pháp luật giáo dục nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn lao sâu vào con đường phạm tội do đó cần phải áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung

Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải, lần đầu tiên bị đưa ra xét xử, bị cáo đang nuôi 02 con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, gia đình khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản...”, tuy nhiên tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo khai nhận không có nghề nghiệp, không có thu nhập nên miễn áp dụng hình phạt phạt tiền.

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự

Đối với 0,193 gam Methamphetamine là vật cấm lưu hành do đó cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với 01 điện thoại di động Iphone bị cáo T dùng để liên lạc với đối tượng bánma tuý cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Wave BKS 99B1-277.71, xác định chủ sở hữu của chị Nguyễn Thu T2 là vợ bị cáo T. Khi cho mượn xe chị T2 không biết bị cáo T dùng xe để đi mua và tàng trữ ma tuý, do đó trả lại cho chị T2.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn, không áp dụng hình phạt bổ sung và đề nghị xử lý vật chứng là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử và phù hợp với quy định của pháp luật

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015

- Áp dụng Điều 106, Điều 135, Điều 331, Điều 332 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt Nguyễn Hữu T 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/12/2018

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt tiền cho bị cáo Nguyễn Hữu T

Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì bên trong có chứa 0,193 gam Methamphetamine theo phiếu nhập kho vật chứng của Cơ quan CSĐT – Công an quận Long Biên ngày10/01/2019.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động Iphone đã qua sử dụng

Trả lại cho chị Nguyễn Thu T2, sinh năm 1997, HKTT: Tổ X phường G, quận L; Hà Nội 01 xe máy nhãn hiệu Wave màu xanh, BKS: 99B1- 277.71, số khung: NF110M0070227, số máy: NF1110ME0070227, đứng tên anh Nguyễn Ngọc Đoàn, sinh năm 1975, HKTT: Khu phố Đình, phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Toàn bộ vật chứng hiện đang được lưu giữ tại kho vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng Cơ quan CSĐT – Công an quận Long Biên và Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên ngày 17/01/2019.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hữu T phải chịu 200.000 đồng án phí HSST

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HSST ngày 30/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:18/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về