TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH - TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 116/2017/HSST NGÀY 25/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 25 tháng 09 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 126/2017/TL- HSST, ngày 07 tháng 09 năm 2017 đối với bị cáo:
Phạm Đình Kh, sinh năm 1980, tại xã K, huyện L, tỉnh B; Nơi cư trú: Đội 4 Đông Ph, thôn C, xã G, huyện L, tỉnh B. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; con ông Phạm Đình Ch và bà Nguyễn Thị L; Vợ Nguyễn Thị T, bị cáo có hai, con đầu sinh năm 2008, con hai sinh năm 2014; Tiền án; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm ngày 02 tháng 08 năm 2017, hiện đang bị tạm tại trại tạm giam Công an tỉnh B (Có mặt).
Người làm chứng: Anh Phạm Quyết Th, sinh năm 1962.
Trú tại: Phố Tây S, phường B, thành phố B, tỉnh B (Vắng mặt).
NHẬN THẤY
Bị cáo Phạm Đình Kh bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 11 giờ, ngày 26/07/2017, bị cáo điểu khiển xe moto từ nhà đến khu vực đầu cầu Nom Nước thuộc xã B, huyện Y, tỉnh Đ gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 200.000đồng được 02 gói Heroine, gói ngoài bằng giấy bạc mầu vàng, bên trong chứa chất bột dạng cục mầu trắng. Mua được Heroine, bị cáo cầm ở tay trái rồi đi về thành phố B tìm nơi sử dụng. Khi bị cáo đi đến khu vực đê sông đáy thuộc phố 11, phường Th, thành phố B thì bị Công an phường B, phối hợp cùng công an phường Th, kiểm tra hành chính, bị cáo ném hai gói ma túy xuống đất thì bị Công an phát hiện yêu cầu bị cáo nhặt hai gói ma túy lên giao nộp.
Tại bản kết luận giám định số: 177/GĐMT, ngày 28/07/2017, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận "Chất bột dạng cục mầu trắng ký hiệu M1 có khối lượng 0,0827gam, M2 có khối lượng 0,0551gam, tổng là 0,1378gam” thu giữ của bị cáo đều là chất ma túy loại Heroine.
Tại bản cáo trạng số: 125/CT- VKS ngày 05.09.2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Phạm Đình Kh ra trước Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, theo khoản 1 Điều 194 Bộ Luật Hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát đề nghị: Tuyên bố bị cáo Phạm Đình Kh phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 và khoản 1 Điều 249, khoản 3 Điều 7 Bộ Luật Hình sự 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14, ngày 20-06-2017 của Quốc hội xử phạt Phạm Đình Kh từ 15 tháng tù đến 20 tháng tù. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu, nhất trí với luận tội của Kiểm sát viên và xin giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
Bị cáo Phạm Đình Kh thừa nhận hành vi tàng trữ 0,1378gam Heroine phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và biên bản, ngày 26 tháng 07 năm 2017, kết luận giám định cùng các chứng cứ khác đã được xem xét công khai tại phiên toà. Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Phạm Đình Kh phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo có bố là bệnh binh đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo. Hội đồng xét xử thấy tội danh, loại, mức hình phạt do đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, cần phải xử phạt bị cáo loại, mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Tại thời điểm xét xử, theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” có khung hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, có lợi cho người phạm tội. Căn cứ khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015, Nghị quyết 41/2017/QH14, ngày 20-06-2017 của Quốc hội, Hội đồng xét xử áp dụng khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 để xử lý đối với bị cáo. Phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tạo điều kiện cho Bị cáo học tập, cải tạo thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội.
Về xử lý vật chứng: Số ma túy thu giữ của bị cáo sau khi lấy mẫu giám định còn lại 0,0831gam Heroine, là chất cấm lưu hành và toàn bộ vỏ bao dùng gói ma túy trong gói niêm phong ban đầu không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
Trong vụ án có người bán ma túy cho bị cáo, bị cáo không rõ tên, địa chỉ của người này nên không có cơ sở điều tra để xử lý.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Phạm Đình Kh phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”
2. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, Nghị quyết 41/2017/QH14, ngày 20-06-2017 của Quốc hội.
Xử phạt bị cáo Phạm Đình Kh 16 (Mười sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02 tháng 08 năm 2017.
3. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, đ khoản 2 Điều 76 Bộ Luật Tố tụng Hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 0,0831gam Heroine (Không phẩy không nghìn, tám trăm ba mốt) và toàn bộ vỏ bao dùng gói ma túy, trong gói niêm phong ban đầu. Cụ thể chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06 tháng 09 năm 2017, giữa Công an thành Phố Ninh Bình và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình.
4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; áp dụng Điều 6; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án . Buộc bị cáo Phạm Đình Kh phải nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000đồng.
Án xử sở thẩm công khai, Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án”.
Bản án 116/2017/HSST ngày 25/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 116/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về