Bản án 18/2019/HSST ngày 29/01/2019 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 18/2019/HSST NGÀY 29/01/2019 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 29 tháng 01 năm 2019, tại Phòng xử án Toà án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh – Số 416/2 Dương Quảng Hàm, Phường 5, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 230/2018/HSST ngày 16/11/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2019/QĐXXST-HS ngày 09/01/2019, đối với các bị cáo:

1/Trần Anh T; giới tính: Nam; sinh năm: 1988; tại Thành phố H; Thường trú: số 1/35/3 đường Trương Đăng Quế, Phường X, quận G, Thành phố H; trình độ văn hóa: 6/12; nghề nghiệp: tài xế; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Anh T và bà Phạm Thị N; vợ: Võ Thị Minh Ph, có 01 con, sinh năm 2008; tiền án: không; tiền sự: không;

Bị cáo bị tạm giam ngày 04/8/2018 (có mặt).

2/Nguyễn Phạm Hoàng Th; giới tính: Nam; sinh năm: 1989; tại tỉnh G; Thường trú: tổ 3, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh G; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: không; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Hoàng Đ (chết) và bà Phạm Thị M Có; vợ, con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: không;

Bị cáo hiện đang bị tạm giam trong vụ án do Công an Thành phố Hồ Chí Minh khởi tố (theo Quyết định khởi tố số 475-01 ngày 30/7/2018) (có mặt).

-Bị hại: bà Lê Thị H (vắng mặt).

Địa chỉ: số 415 lô 11, cư xá Thanh Đa, Phường Y, quận B, Thành phố H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 00 phút, ngày 19/7/2018, chị Lê Thị H điều khiển xe máy Hoda SCR biển số 59S2-032.21 đến nhà số 213 đường Bạch Đằng, Phường 3, quận Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh, chị H dựng xe trước nhà rồi đi vào bên trong nhưng để quên chìa khóa trên xe. Lúc này, Trần Anh T đi bộ ngang qua nhìn thấy xe máy cắm sẵn chìa khóa, không người trông coi nên T lén lút đi lại lấy xe rồi chạy đến tiệm Game bắn cá số 98c đường Bạch Đằng, Phường Y, quận T, Tp. H. Tại đây, T bán xe  cho Nguyễn Phạm Hoàng Th và cho Th biết chiếc xe máy này do T trộm cắp mà có, Th đồng ý mua xe với giá 2.500.000 đồng. Sau khi mua xe, Th đem đến gửi tại bãi giữ xe Bệnh viện Gò Vấp. Số tiền 2.500.000 đồng T đã tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 30/7/2018, Nguyễn Phạm Hoàng Th bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Tp.Hồ Chí Minh khởi tố và tạm giam trong một vụ án trộm cắp tài sản khác. Khi bắt giữ Th, Cơ quan Công an có thu giữ thẻ giữ xe tại bệnh viện quận Gò Vấp nên đã thu hồi được chiếc xe máy Hoda SCR biển số 59S2-032.21.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Trần Anh T và Nguyễn Phạm Hoàng Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Vật chứng thu giữ gồm:

-01 xe máy Hoda SCR biển số 59S2-032.21;

-01 USB màu đỏ đen;

Tại bản kết luận định giá tài sản số 245/KL ngày 10/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự, Ủy ban nhân dân quận Gò Vấp, Tp.Hồ Chí Minh kết luận: Giá trị chiếc xe máy SCR, số khung WBTDH10961006435, số máy WH150MH06L01871, do hãng Honda sản xuất đã qua sử dụng theo giá thị trường ngày 19/7/2018 là 10.500.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 228/Ctr-VKS ngày 14/11/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Trần Anh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, bị cáo Nguyễn Phạm Hoàng Th về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1, Điều 323 của Bộ luật Hình năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản đã thu hồi trả cho người bị hại để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt và đề nghị xử phạt:

Bị cáo Trần Anh T từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Bị cáo Nguyễn Phạm Hoàng Th từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Miễn phạt bổ sung cho bị cáo. Xử lý vật chứng theo qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bào chữa cho các bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

 [2]. Lời khai nhận tội của các bị cáo Trần Anh T và Nguyễn Phạm Hoàng Th tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Việc truy tố, luận tội của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đủ cơ sở xác định bị cáo Trần Anh T phạm tội “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; bị cáo Nguyễn Phạm Hoàng Th phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, Điều 323 của Bộ luật Hình năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

 [3]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là cố ý và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vì động cơ tư lợi muốn chiếm đoạt tài sản để tiêu xài cá nhân nên vẫn cố tình phạm tội. Do đó, cần phải có mức án thoả đáng, tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo để có tác dụng giáo dục và phòng chống tội phạm nói chung.

 [4]. Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho các bị cáo các tình tiết: Tại cơ quan điều tra và qua diễn biến phiên toà các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản đã thu hồi trả cho người bị hại để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

 [5]. Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5, Điều 173 và khoản 5, Điều 323 của Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của các bị cáo nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

 [6]. Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên toà, bị hại là chị Lê Thị H vắng mặt nhưng qua hồ sơ thể hiện chị Lê Thị Huệ đã nhận lại chiếc xe máy Hoda SCR biển số 59S2-032.21 và không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét lại.

 [7]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 chiếc xe máy Hoda SCR biển số 59S2-032.21. Cơ quan Điều tra đã trả lại cho người bị hại là đúng theo quy định của pháp luật.

-Đối với 01 USB màu đỏ đen. Xét thấy, là vật chứng của vụ án nên tịch thu lưu hồ sơ vụ án.

 [8]. Đối với số tiền 2.500.000 đồng bị cáo T có được do bán xe cho bị cáo Th là tiền thu lợi bất chính nên buộc bị cáo cáo nộp sung quỹ Nhà nước.

 [9]. Các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm.

 [10]. Các bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Anh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo Nguyễn Phạm Hoàng Th phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

- Áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm i, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Trần Anh T 09 (chín) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 04/8/2018.

- Áp dụng khoản 1, Điều 323; điểm i, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Phạm Hoàng Th 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

+ Buộc bị cáo Trần Anh T nộp 2.500.000 đồng sung quỹ Nhà nước.

+ Tịch thu lưu hồ sơ vụ án 01 USB màu đỏ đen.

 (Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 217/PNK ngày 12/9/2018 của Công an quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh).

Buộc các bị cáo nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

378
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HSST ngày 29/01/2019 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:18/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về