Bản án 18/2019/HSST ngày 28/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BUÔN ĐÔN – TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 18/2019/HSST NGÀY 28/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk mở phiên tòa để xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 15/2019/HSST, ngày 11/6/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 6 năm 2019 đối với:

Bị cáo Hồ Tất S: Sinh ngày 27 tháng 12 năm 1998. tại tỉnh Đắk Lắk.

Nơi cư trú: Tổ T, thị trấn Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Nghề nghiệp: Làm nông. Trình độ học vấn: 8/12.

Con ông Hồ Tất Th (đã chết) và bà Vũ Thị B, sinh năm 1972

- Tiền án: không.

- Tiền sự: Ngày 20/01/2019 bị Chủ tịch ủy ban nhân dân thị trấn Quảng Phú, huyện Cư Mgar ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại thị trấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

- Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 31/3/2019, chuyển tạm giam theo lệnh tạm giam số 211 ngày 03/4/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Buôn Đôn (có mặt)

Người bào chữa cho bị cáo Hồ Tất S: Ông Phùng Văn H – Trợ giúp viên pháp lý thuộc trung T trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đắk Lắk (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Thế Ph – sinh năm 2000.

Nơi cư trú: T3, ội Đ, xã H, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk ( có mặt).

- Bà Nguyễn Thị T – sinh năm 1968.

Nơi cư trú: T5, khối S, Phường T. Tp. B, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).

Người làm chứng:

- Ông Nguyễn Thành Ch – sinh năm 1980.

Nơi cư trú: Buôn P, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).

- Ông Lê Văn C – sinh năm 1980.

Nơi cư trú: Thôn 3, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 31/3/2019, Hồ Tất S, mượn xe môtô BKS 47B2-232.14 của Lê Đức M (nói là đi thăm bạn) rồi điều khiển đến cuối đường An Dương Vương, thành phố Buôn Ma Thuột để mua ma túy đá. Tại đây, S gặp một người đàn ông lạ mặt (không xác định nhân thân lai lịch), S đưa cho người này 300.000 đồng để mua ma túy đá và dụng cụ sử dụng ma túy. Người đàn ông này đưa cho S 01 cục xạc điện, và dụng cụ sử dụng ma túy đá, bên trong cục xạc có 01 gói Nylon chứa ma túy đá. Sau khi mua được số ma túy và dụng cụ nói trên, S điều khiển xe môtô theo hướng đi huyện Buôn Đôn để đi đến tiểu đoàn 303, tỉnh đội Đắk Lắk, khi đến đoạn đường liên huyện thuộc thôn Hòa An, xã Ea Nuôl, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk thì gặp ông Nguyễn Thành Ch (là cha đẻ của Nguyễn Thế Ph) và ông Lê Văn C, ông Ch nghi ngờ S mang ma túy vào cho con mình nên ông Ch và ông C đã giữ S lại kiểm tra thì phát hiện trong người S có ma túy và dụng cụ sử dụng ma túy nên đã gọi điện báo cho Công an huyện Buôn Đôn đến bắt giữ.

Vật chứng vụ án Cơ quan điều tra tạm giữ gồm: 01 gói Nylon, bên trong chứa các chất rắn dạng tinh thể màu trắng (đối tượng S khai là ma túy đá); 01 cục xạc điện màu trắng xanh; 01 ống thủy tinh dài 20 cm được uốn cong, bên trong rỗng, một đầu hình trụ, một đầu hình tròn có khoét một lỗ đường kính 0,5cm; 01 ống hút nhựa màu trắng cam dài 16cm, rộng 0,5cm; 01 nắp nhựa màu đỏ cao 1cm, đường kính 3cm, được đục 02 lỗ; 01 xe môtô hiệu Exciter, màu đỏ, BKS: 47B2-232.14, số khung RLCE5P710AY024450, số máy: 5P71-024461; 01 Giấy chứng minh nhân dân số 241721424 do Công an tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 25 tháng 8 năm 2014, mang tên Hồ Tất S.

Tại kết luận giám định số 271/GĐMT-PC09, ngày 03/04/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk xác định: Các cục tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói Nylon được niêm Ph gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1533 gam, loại: Methamphetamine.

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47B2-232.14 mà bị can Hồ Tất S sử dụng để đi mua ma túy, quá trình điều tra xác định được chiếc xe trên thuộc quyền sở hữu của bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1968, trú tại phường T, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk . Sáng ngày 31/3/2019 S hỏi mượn Lê Đức M, sinh năm 2003 (M là con trai bà Nguyễn Thị T) nói là đi thăm bạn đang huấn luyện tại tiểu đoàn 303. Bà T và M hoàn toàn không biết việc S mượn sau đó sử dụng xe môtô trên để đi mua ma túy. Ngày 06/5/2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện đã ra quyết định xử lý vật chứng số 253 trả lại chiệc xe trên cho bà Nguyễn Thị T.

Sau khi bị bắt quả tang, Hồ Tất S bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Buôn Đôn tạm giữ từ 31/3/2019, chuyển tạm giam từ ngày 03/04/2019.

Trong vụ án, theo lời khai của Hồ Tất S cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Buôn Đôn đã tiến hành xác minh nhân thân lại lịch của đối tượng tên thường gọi là anh tóc dài, cao 1,65m, khoảng 40 tuổi tại đường An Dương Vương, phường Thành Nhất, tp. Buôn Ma Thuột là đối tượng bán ma túy cho S nhưng không có kết quả nên không đề cập giải quyết.

Hồ Tất S khai mua chất ma túy và dụng cụ sử dụng ma túy cho Nguyễn Thế Ph sử dụng là lời khai một phía của S, anh Ph phủ nhận việc thỏa thuận với bị cáo mua ma túy sử dụng nên không đủ căn cứ xử lý.

Tại bản cáo trạng số: 13/KSĐT-HT ngày 10/6/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Buôn Đôn đã truy tố bị cáo Hồ Tất S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Hồ Tất S thành khẩn khai nhận hành vi do bị cáo thực hiện váo sáng ngày 31/3/2019, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Buôn Đôn.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Buôn Đôn sau khi đánh giá tính chất vụ án, phân tích đánh giá các chứng cứ buộc tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo đã quyết định giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hồ Tất S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, đề nghị xử phạt bị cáo Hồ Tất S từ 01(một) năm đến 01(một) năm 03(ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 31/3/2019.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Đề nghị tịch thu để tiêu hủy: 01 gói Nylon chứa ma túy đá (sau khi gửi giám định còn lại 0.1371 gam); 01 cục xạc điện màu trắng xanh; 01 ông thủy tinh dài 20 cm được uốn cong, bên trong rỗng, một đầu hình trụ, một đầu hình tròn có khoét một lỗ đường kính 0,5cm; 01 ống hút nhựa màu trắng cam dài 16cm, rộng 0,5cm; 01 nắp nhựa màu đỏ cao 1cm, đường kính 3cm, được đục 02 lỗ.

+ Đề nghị tiếp tục tạm giữ 01 Giấy chứng minh nhân dân số 241721424 do Công an tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 25 tháng 8 năm 2014, mang tên Hồ Tất S trong thời gian bị cáo S thi hành án.

+ Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Buôn Đôn đã trả lại cho chủ sở hữu bà Nguyễn Thị T chiếc xe mô tô mang biển kiểm soát số 47B2- 232.14.

Bị cáo Hồ Tất S thừa nhận phần luận tội và quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Buôn Đôn là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai. Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì thêm, bị cáo hối hận về hành vi phạm tội của mình và xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm có điều kiện tái hòa nhập cộng đồng, phấn đấu trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Buôn Đôn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Buôn Đôn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định và không bị ai khiếu nại gì về việc tiến hành các hoạt động tố tụng đối với vụ án nên toàn bộ hoạt động tố tụng, thu thập chứng cứ đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét lời khai của bị cáo Hồ Tất S tại phiên tòa sơ thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, của những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa cũng như kết quả tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm.

Như vậy, đã có đủ cơ sở xác định: Khoảng 8 giờ 30 phút ngày 31/3/2019, sau khi mua ma túy và dụng cụ sử dụng ma túy của một người đàn ông lạ mặt (không xác định nhân thân lai lịch) về để sử dụng, S điều khiển xe mô tô, khi đi đến thôn Hòa An, xã Ea Nuôl, huyện Buôn Đôn thì bị ông Nguyễn Thành Ch và ông Lê văn C phát hiện bắt quả tang và báo cơ quan Công an huyện Buôn Đôn bắt và thu giữ trên người S toàn bộ tang vật là ma túy có khối lượng 0,1533 gam và dụng cụ sử dụng ma túy.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội được qui định trong Bộ luật hình sự hiện hành, không những xâm phạm trực tiếp đến chế độ quản lý các chất ma túy của nhà nước mà còn gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo thực hiện hành vi nêu trên trong điều kiện hoàn toàn đủ khả năng nhận thức về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và hậu quả xảy ra nhưng vì coi thường pháp luật nên vẫn cố ý thực hiện.

Xét quan điểm buộc tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Buôn Đôn là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên cần chấp nhận.

Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Hồ Tất S phạm tội “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

…..c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Xét tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo cũng như yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy tại địa phương, thấy rằng: Tội phạm về ma túy nói chung và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” hiện đang có xu hướng gia tăng cả về số lượng và cả về tính chất nghiêm trọng. Trong thời gian qua mặc dù các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng, cả hệ thống chính trị và cả xã hội nói chung đã phòng chống loại tội phạm này rất quyết liệt nhưng loại tội phạm này vẫn không giảm.Thấy rằng loại tội phạm này là một trong những nguyên nhân sinh ra các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Mặt khác, trước khi phạm tội, bị cáo đã bị xử lý hành chính về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy” .Vì vậy, thấy cần áp dụng hình phạt phù hợp mới có tác dụng cải tạo, giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung, đáp ứng yêu cầu phòng, chống loại tội phạm này tại địa phương trong tình hình hiện nay.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Thấy rằng trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo, thực sự ăn năn hối cải. Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật có những hạn chế nhất định.

Xét luận cứ bào chữa của trợ giúp viên pháp lý là có cơ sở pháp luật cần chấp nhận. Vì vậy cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần trách nhiệm hình sự, nhằm thể hiện tính khoan hồng của pháp luật nhà nước ta.

[5] Về áp dụng hình phạt

Xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật và thỏa đáng nên Hội đồng xét xử cần xem xét trong khi lượng hình. 

Thấy cần phải tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.

[6] Về các biện pháp tư pháp:

- Đối với vật chứng đã thu giữ gồm: 01 gói Nylon chứa ma túy đá (sau khi gửi giám định còn lại 0.1371 gam); 01 cục xạc điện màu trắng xanh; 01 ông thủy tinh dài 20 cm được uốn cong, bên trong rỗng, một đầu hình trụ, một đầu hình tròn có khoét một lỗ đường kính 0,5cm; 01 ống hút nhựa màu trắng cam dài 16cm, rộng 0,5cm; 01 nắp nhựa màu đỏ cao 1cm, đường kính 3cm, được đục 02 lỗ thuộc loại vật cấm lưu hành nên cần áp dụng qui định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47B2-232.14 mà bị cáo Hồ Tất S sử dụng để đi mua ma túy, quá trình điều tra xác định được chiếc xe trên của bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1968, trú tại phường T, Tp B, tỉnh Đắk Lắk là chủ sở hữu. Sáng ngày 31/3/2019 S hỏi mượn Lê Đức Mạnh, sinh năm 2003 (M là con trai bà Nguyễn Thị T) nói là đi thăm bạn đang huấn luyện tại tiểu đoàn 303. Bà T và Mạnh hoàn toàn không biết việc S mượn sau đó sử dụng xe môtô trên để đi mua ma túy. Ngày 06/5/2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện đã ra quyết định xử lý vật chứng số 253 trả lại chiệc xe trên cho bà Nguyễn Thị T là phù hợp qui định tại khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1 điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự vì vậy cần chấp nhận.

- Đối với giấy chứng minh nhân dân số 241721424 do Công an tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 25/8/2014, mang tên Hồ Tất S đã bị cơ quan điều tra thu giữ cần tiếp tục tạm giữ trong thời gian bị cáo chấp hành hình phạt tù.

[8] Về án phí: Bị cáo Hồ Tất S thuộc diện hộ cận nghèo nên theo qui định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 , bị cáo được miễn toàn bộ án án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Hồ Tất S phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Hồ Tất S: 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 31/3/2019.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1,2 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015; khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

- Tịch thu tiêu hủy 01 gói ma túy đã niêm Ph, có dấu niêm Ph của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk và dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 cục xạc điện màu trắng xanh, 01 ống thủy tinh dài 20cm (có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/6/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Buôn Đôn và Chi cục thi hành án dân sự huyện Buôn Đôn).

- Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Buôn Đôn trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47B2-232.14 cho bà Nguyễn Thị T là chủ sở hữu.

- Tiếp tục tạm giữ 01 giấy chứng minh nhân dân số 241721424 do Công an tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 25/8/2014, mang tên Hồ Tất S trong thời gian bị cáo S chấp hành hình phạt tù.

Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm…án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Hồ Tất S được miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án sơ thẩm có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo phần bản án sơ thẩm có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HSST ngày 28/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Buôn Đôn - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về