Bản án 18/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 18/2019/HS-ST NGÀY 26/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 01/2019/HSST ngày 02 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2019 đối với các bị cáo:

- Bị cáo thứ nhất: Trần Minh D; sinh năm 1981 tại Cà Mau; tên gọi khác: Trần Minh D - Mười D; giới tính: Nam; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Khóm A, thị trấn SĐ, huyện TVT, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 5/12; Con ông: Trần Văn B, sinh năm 1928 (chết) và bà Đặng Thị C, sinh năm 1933 (chết); anh, chị em ruột: 06 người; vợ: Phương Ngọc Đ, sinh năm 1982; con: 03 người; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp từ ngày 11/10/2018 đến ngày 19/10/2018 chuyển sang tạm giam và đến ngày 19/11/2018 cho bảo lãnh tại ngoại đến nay (có mặt).

- Bị cáo thứ hai: Lê Giang S, sinh năm 1972 tại Cà Mau; giới tính: Nam; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Khóm A, phường B, thành phố CM, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 8/12; con ông: Lê Văn Đ, sinh năm 1940 và bà Đỗ Kim D, sinh năm 1945 (đã chết); anh, chị em ruột: 06 người; vợ: Võ Thúy K, sinh năm 1974; con: 02 người; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp từ ngày 11/10/2018 đến ngày 19/10/2018 chuyển sang tạm giam đến nay (có mặt).

- Người làm chứng: Phương Ngọc Đ, sinh năm 1982  (vắng mặt). Địa chỉ: Khóm A, thị trấn SĐ, huyện TVT, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 04 giờ ngày 10/10/2018, Trần Minh D thuê xe ô tô đi đến phường A, thành phố CM, tỉnh Cà Mau để khám bệnh. Sau khi khám bệnh xong, D đi ra xe về thì gặp K (không xác định được căn cước lai lịch) là bạn cũ của D. K hỏi thăm D thì D trả lời dạo này đang ra đồ đuối quá (tức là đang cai nghiện tại nhà và bị lên cơn nghiện) chịu không nổi nên đi khám bác sĩ, K nói như vậy nguy hiểm lắm để K lấy cho D một ít đồ dằn lại (có nghĩa là lấy cho D một ít ma túy để D sử dụng cho qua cơn nghiện) thì D đồng ý. K điều khiển xe đi, khoảng 10 phút sau K quay lại đưa cho D 01 gói thuốc lá rồi K chạy đi. D mở gói thuốc ra xem thì thấy bên trong có 01 bịch ni lông màu trắng được hàn kín bên trong có chứa ma túy đá; 01 bịch ni lông màu trắng bên trong có chứa lá khô màu nâu là cần sa và 01 gói giấy bạc bên trong có chứa heroine. D cất giấu gói thuốc đựng ma túy vào trong túi quần đang mặc rồi kêu tài xếH điều khiển xe đi đến nhà của M (không xác định được căn cước, lai lịch) ở phường 7, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Tại đây, D gặp M, Lê Giang S và Võ Thúy K1 (là vợ của S). M nói riêng với S nhờ đi mua giùm cho M 500.000 đồng ma túy đá, S đến dưới dốc cầu H thuộc phường X, thành phố CM, tỉnh Cà Mau gặp một người phụ nữ tên L (không xác định được căn cước, lai lịch) mua 500.000 đồng ma túy. L đưa cho S 01 bịch ni lông màu trắng hàn kín bên trong có chứa ma túy đá, S lấy bịch ma túy đá này và trả cho Lùn 500.000 đồng, rồi S về nhà của M. Khi về đến nhà S phân bịch ma túy ra làm 02 bịch, S đưa cho M 01 bịch, 01 bịch ma túy đá còn lại M cho S thì S cất giấu vào túi quần phía trước bên phải của S, mục đích để sử dụng. Sao đó, D rũ S, K1 về nhà của D chơi, S điều khiển xe chở K1 đi đến nhà của D trước.

Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày D về đến nhà ở khóm A, thị trấn SĐ, huyện TVT, tỉnh Cà Mau, lúc này S và K1 đang ở nhà D cùng với Phương Ngọc Đ (vợ của D). D vào nhà, rồi lấy trong gói thuốc mà K đã đưa ra 01 bịch ni lông đựng lá cần sa, D dùng kéo cắt cần sa ra bỏ vào cái thố bằng sứ, một ít cần sa bỏ vào bình để sử dụng, một phần cần sa bỏ vào hộp nhựa màu hồng (loại dùng để đựng vàng) rồi để cái hộp lên trên cây quạt máy, phần cần sa còn lại D bỏ vào trong cái hộp màu trắng để ở gần chổ D ngồi; D tiếp tục lấy ra 01 gói giấy bạc chứa heroine, D phân ra làm 02 gói nhỏ (01 gói giấy bạc chứa heroine D bỏ vào bên trong bóp của D, gói còn lại D bỏ chung vào cái hộp màu hồng có đựng cần sa); tiếp tục D lấy 01 bịch ni lông bên trong có chứa ma túy đá để lên trên cây quạt máy gần hộp nhựa màu hồng. Sau đó, D đốt số cần sa trong bình lên sử dụng cùng với S. Đến 20 giờ 30 phút cùng ngày, lực lượng Công an thị trấn SĐ đến nhà của D bắt quả tang D và S sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan Cảnh sát điều tra

Công an huyện Trần Văn Thời tiến hành khám xét khẩn cấp nhà của D và thu giữ toàn bộ số ma túy nêu trên mà D đã cất giấu trong nhà và trong người của D; thu giữ 01 bịch ma túy đá của Lê Giang S cất giấu trong túi quần, ngoài ra còn thu giữ tại nhà D các đồ vật gồm: 02 bình nhựa loại chai nước suối có gắn ống hút; 02 cây kéo màu trắng; 03 miếng giấy bạc được quấn lại; 03 lưỡi lam; 04 quẹt ga; 01 bình ga hiệu Ogawa.

Kết luận giám định số 68/GĐMT-PC09 ngày 11 tháng 10 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sóc Trăng kết luận mẫu niêm phong của Trần Minh D như sau:

Mẫu tinh thể được niêm phong ký hiệu IVA, có khối lượng 0,199 gam làchất ma túy, loại Methamphetamine;

 Mẫu chất bột được niêm phong – ký hiệu VIA, có khối lượng là 0,039 gam, là chất ma túy, loại Heroine;

Mẫu chất bột được niêm – ký hiệu IIIA, có khối lượng là 0,191 gam, là chất ma túy, loại Heroine

Tổng trọng lượng chất ma túy, loại Heroine nêu trên là 0,230 gam.

Kết luận giám định số 68/GĐMT-PC09 ngày 11 tháng 10 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sóc Trăng kết luận mẫu niêm phong của Lê Giang S như sau: Mẫu tinh thể được niêm phong - ký hiệu IB, có khối lượng 0,172 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 07/CT-VKS ngày 27/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời truy tố bị cáo D và S về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

* Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ y quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, phạt bị cáo D từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm 06 tháng tù; phạt bị cáo S từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy các vật chứng bị thu giữ theo bút lục số 191.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trần Văn Thời, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Qua xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố. Đối chiếu lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, người làm chứng, biên bản kiểm tra hành chính, biên bản khám nghiệm và sơ đồ hiện trường, biên bản khám xét, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập thẩm tra làm rõ tại phiên tòa, đã chứng minh: Do nghiện ma túy nên ngày 10/10/2018, tại nhà của Trần Minh D ở khóm A, thị trấn SĐ, huyện TVT, D đã tàng trữ trên người và trong nhà là 0,199 gam chất ma túy loại Methamphetamine và 0,230 gam chất ma túy loại Heroine để sử dụng; Lê Giang S đã tàng trữ trên người 0,172 gam ma túy đá loại Methamphetamine để sử dụng bị phát hiện và thu giữ. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của D và S như trên đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát đã truy tố là đúng người, đúng tội.

 [3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp nghiêm trọng, các bị cáo trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý đặc biệt của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ của con người, làm suy kiệt nồi giống. Đồng thời làm gia tăng số lượng người sử dụng trái phép chất ma tuý trong xã hội, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo biết rõ hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của việc sử chất ma túy nhưng vẫn thực hiện nhằm thoả mãn nhu cầu của mình.

 [4] Các bị cáo là người đã trưởng thành có đầy đủ nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân và toàn xã hội nhưng các bị cáo vẫn cố ý đi vào con đường nghiện hút, tàng trữ và phạm tội. Bị cáo D tàng trữ số lượng nhiều hơn, nguy hiểm hơn bị cáo S nên phải có hình phạt cao hơn; nhân thân của bị cáo S xấu, ngày 27/01/2003 bị Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân. Do vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử có xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của từng bị cáo trong vụ án để xử phạt hai bị cáo hình phạt tù nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo đã gây ra nhằm cải tạo các bị cáo trở thành người tốt có ích cho xã hội, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật và phòng ngừa chung cho xã hội là cần thiết.

 [5] Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo nhằm thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

 [6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo D và S đều có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế nên không cần thiết phạt hình phạt tiền đối với các bị cáo là có cơ sở.

 [7] Đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Trần Minh D với tổng trọng lượng là 6,8251 gam cần sa. Xét thấy, tổng trọng lượng cần sa chưa đủ định lượng để cấu thành tội phạm, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trần Văn Thời không truy cứu trách nhiệm hình sự là có căn cứ.

 [8] Đối với người tài xế lái xe chở D; người tên K đã cho D ma túy; người phụ nữ tên M đã kêu S mua ma túy về sử dụng; người phụ nữ tên L đã bán ma túy cho Lê Giang S. Qua quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trần Văn Thời không xác định được nhân thân lai lịch của những người trên, nên không có đủ căn cứ để xử lý hình sự đối với họ là đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xử lý sau.

 [9] Về xử lý vật chứng: Xét thấy các vật chứng là ma túy và cần sa thu giữ của D; thu giữ 01 bịch ma túy đá của Lê Giang S, thu giữ tại nhà D các đồ vật gồm: 02 bình nhựa loại chai nước suối có gắn ống hút; 02 cây kéo màu trắng; 03 miếng giấy bạc được quấn lại; 03 lưỡi lam; 04 quẹt ga; 01 bình ga hiệu Ogawa theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/12/2018 (BL 191) không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy là có căn cứ.

 [10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Minh D và Lê Giang S phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hìnhsự.

 Xử phạt bị cáo Trần Minh D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù được tính kể từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án, được đối trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/10/2018 đến ngày 19/11/2018.

Xử phạt bị cáo Lê Giang S 01 (một) năm tù, thời hạn tù được tính kể từ ngày 11/10/2018.

- Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 và điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy:

+ 02 bình nhựa loại chai nước suối có gắn ống hút; 02 cây kéo màu trắng; 03 miếng giấy bạc được quấn lại; 03 lưỡi lam; 04 quyẹt ga; 01 bình ga hiệu Ogawa;

+ 01 phong bì được niêm phong có 04 chữ ký của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng niêm phong số 68/GĐMT-PC09 ngày 11/10/2018, ký hiệu IIIA có chữ ký của Phạm Thanh Trường S, Nguyễn Thanh T, Tạ Hoàng U;

+ 01 phong bì được niêm phong có 04 chữ ký của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng niêm phong số 68/GĐMT-PC09 ngày 11/10/2018, ký hiệu IVA có chữ ký của Phạm Thanh Trường S, Nguyễn Thanh T, Tạ Hoàng U;

+ 01 phong bì được niêm phong có 04 chữ ký của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng niêm phong số 68/GĐMT-PC09 ngày 11/10/2018, ký hiệu IB có chữ ký của Phạm Thanh Trường S, Nguyễn Thanh T, Tạ Hoàng U;

+ 01 phong bì được niêm phong có 04 chữ ký của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng niêm phong số 68/GĐMT-PC09 ngày 11/10/2018, ký hiệu VIA có chữ ký của Phạm Thanh Trường S, Nguyễn Thanh T, Tạ Hoàng U;

+ 01 phong bì được niêm phong có chữ ký của Phòng kỹ thuật hình sự đội giám định hóa kỹ thuật pháp lý và pháp y sinh vật hoàn mẫu; CBGĐ Trần Quốc Hậu ngày hoàn 08/11/2018 số 191-GĐH/PC09 ngày 08/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cà Mau; cơ quan trưng cầu cơ quan cảnh sát điều tra huyện Trần Văn Thời số 207 ngày 05/11/2018 tên đối tượng Trần Minh D sinh năm 1981, tên mẫu IA, VA, IIA có dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cà Mau.

Các vật chứng hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời đang quản lý (BL 191).

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Án phí hình sự sơ thẩm buộc bị cáo D và S mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng.

 “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Án xử công khai báo các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về