Bản án 18/2019/HS-ST ngày 25/02/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN,  TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 18/2019/HS-ST NGÀY 25/02/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 02 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 13/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vi Văn T; Tên gọi khác: không; sinh năm 1968 tại xã HK, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: bản NL, xã HK, huyện KS, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: làm rẫy; trình độ văn hóa: lớp 8/12; dân tộc: Thái; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vi Văn N và bà Lương Thị H; Có vợ là Lương Thị Th và 05 con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 24/11/2006 bị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An kết án 7 năm 6 tháng (Bảy năm sáu tháng) tù về các tội “Cướp tài sản” và “Trộm cắp tài sản” chấp hành xong bản án ra tù ngày 01/6/2012, tháng 1 năm 2005 bị đưa đi cai nghiện tại trung tâm lao động xã hội II, tỉnh Nghệ An, ngày 10/4/2006 Vi Văn T bị Công an xã Hữu Kiệm xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”; bị bắt từ ngày 30/09/2018 đến nay, hiện đang tạm giam. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn H, Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Nghệ An. Có mặt

- Người làm chứng: Ông Vi Khăm H; Sinh năm 1986; Nơi cư trú: Bản C, xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An; (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 8 giờ 30 phút ngày 30/9/2017, Vi Văn T xin đi nhờ xe của một người không quen biết đến bản Đ, xã LM, huyện TD, tỉnh Nghệ An  thì gặp một người đàn ông không quen biết, Vi Văn T đã mua của người đàn ông đó 01 (Một) gói heroin với giá 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng, sau khi mua xong Vi Văn T quay về nhà, đến nhà Vi Văn T lấy số hêrôin mua được gói thành 9 (Chín) gói nhỏ rồi lấy 01 (Một) gói ra sử dụng, số còn lại để bán kiếm lời.

Đến khoảng 15 giờ 20 phút ngày 30/9/2018 khi Vi Văn T đang ở khu vực bản Cc, xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An thì có một người đàn ông tên Hoàn đến mua heroin và Vi Văn T đã bán cho Hoàn 02 (Hai) gói heroin với giá 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) nhưng Hoàn mới chỉ trả được 70.000đ (Bảy mươi nghìn đồng). Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày thì Vi Văn T bị Công an huyện Kỳ Sơn phát hiện bắt quả tang, thu giữ của Vi Văn T 06 (sáu) gói chất màu trắng (nghi là hêrôin) và số tiền 70.000 đồng (Bảy mươi nghìn đồng).

Tại biên bản mở niêm phong và xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vào 15 giờ 30 phút ngày 01/10/2018 đã xác định: Số chất bột màu trắng (nghi là heroin) thu giữ của Vi Văn T có trọng lượng là 0,15 gam (Không phẩy mười lăm gam).

Tại kết luận giám định số 1006/KL-PC54 ngày 4/10/2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Chất màu trắng ghi thu của Vi Văn T gửi tới giám định là chất ma túy (heroin).

Cáo trạng số 09/VKS-HS ngày 20/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An đã truy tố Vi Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Vi Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố, bị cáo thừa nhận là mua hêrôin về cất dấu nhằm mục đích để vừa sử dụng vừa bán kiếm lời.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay vẫn giữ nguyên quyết định truy tố của mình và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Vi Văn T mức án từ 24 (Hai mươi bốn) đến 27 (Hai mươi bảy) tháng tù, đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định.

Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo Vi Văn T phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được công bố, thẩm tra, xem xét tại phiên tòa nên đủ cơ sở để kết luận: Ngày 30/9/2018 Vi Văn T đã có hành vi tàng trữ 0,15 gam (Không phẩy mười lăm gam) hêrôin nhằm mục đích mua bán. Vì vậy, hành vi đó của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước đối với các loại chất gây nghiện, gây ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội nhưng vì hám lợi bị cáo đã bất chấp pháp luật mua bán trái phép nhằm thu lợi bất chính, do vậy hành vi đó cần phải được đưa ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật. Khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định: “Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

[2] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy rằng: Bị cáo đã từng bị kết án về tội “Cướp tài sản” và “Trộm cắp tài sản” mặc dù đã được xóa án tích nhưng chứng tỏ bị cáo có nhân thân xấu, có ý thức coi thường pháp luật, không lấy lần kết án trước làm bài học cho mình để tu dưỡng rèn luyện mà lại tiệp tục phạm tội, do đó việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung là cần thiết. Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần phải xem xét phần nào giảm nhẹ cho bị cáo vì đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[3] Hình phạt bổ sung: Thấy rằng bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[4] Đối với người đàn ông tên Hoàn đã mua heroin từ Vi Văn T, quá trình điều tra Công an huyện không xác định được tên, tuổi, địa chỉ vì vậy không có căn cứ để xử lý.

[5] Vật chứng vụ án: Số ma túy đã thu giữ của bị cáo sau khi đã trích mẫu gửi đi giám định thì còn lại là 0,1g (Không phẩy một gam) hêroin, đây là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên phải tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 70.000đ (Bảy mươi nghìn đồng) thu giữ của Lô Văn Tuấn, quá trình điều tra không chứng minh được đối tượng đã mua ma túy của bị cáo nên số tiền đó được trả lại cho bị cáo.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Về tội danh và mức hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Vi Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Vi Văn T 26 (Hai mươi sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 30/9/2018 (ngày bị cáo bị bắt).

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy một phong bì thư bưu điện đã được niêm phong có đầy đủ chữ ký của Hội đồng tham gia niêm phong và chữ ký của đối tượng Vi Văn T và đóng dấu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Sơn, bên trong có chứa 0,1g (Không phẩy một gam) hêroin.

- Trả lại cho bị cáo Vi Văn T số tiền 70.000đ (Bảy mươi nghìn đồng) đã thu giữ của bị cáo.

Các vật chứng trên hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/12/2018 và biên bản giao nhận giấy nộp tiền ngày 03/01/2019.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Vi Văn T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên bố, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HS-ST ngày 25/02/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về