Bản án 18/2019/HS-ST ngày 21/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN - TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 18/2019/HS-ST NGÀY 21/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố LạngSơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 14/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Lương Đình V, sinh ngày 04/8/1990 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký thường trú: Thôn L, xã Đ, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở hiện nay: Đường H, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Đình Đ và bà Dương Thị H; vợ tên Lê Thị Ngọc A và có 01 con sinh năm 2014; tiền sự: Không; tiền án: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/12/2018 cho đến nay. Có mặt.

Người chứng kiến: Ông Lê Phát T, sinh năm 1972. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 10/12/2018, Lương Đình V đi xe taxi từ đường H, phường H, thành phố L đến một quán phở tại đường Y, phường T, thành phố L. Tại đây Lương Đình V gặp một người đàn ông tên H, H rủ Lương Đình V góp tiền mua ma túy, Lương Đình V đồng ý rồi cùng H đi đến khu vực đền K, H một mình đi mua ma túy còn Lương Đình V đứng chờ. Khoảng 30 phút sau H quay lại chở Lương Đình V đến hiệu thuốc A, đường T, phường C, thành phố L, khi đến nơi H đưa cho Lương Đình V 01 gói ma túy đựng trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long, Lương Đình V đi vào hiệu thuốc để mua xi lanh thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt giữ còn H điều khiển xe mô tô bỏ chạy.

Bản kết luận giám định số 28/KL-PC09 ngày 14/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,111 gam (đã trừ bì).

Tại bản Cáo trạng số 21/CT-VKS-MT ngày 22/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Lương Đình V về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Lương Đình V khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý đúng như nội dung cáo trạng đã nêu.

Người chứng kiến ông Lê Phát T vắng mặt tại phiên tòa, lời khai có trong hồ sơ vụ án thể hiện ông được chứng kiến sự việc lực lượng Công an bắt quả tang và thu giữ tang vật đúng như bị cáo khai nhận.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lương Đình V phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lương Đình V từ 12 tháng đến 15 tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 10/12/2018; không áp dụng hình phạt bổ sung. Về xử lý vật chứng, đề nghị áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong chất ma túy hoàn lại sau giám định, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long, trả lại cho bị cáo 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Lương Đình V; bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Lương Đình V tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 10 giờ 40 phút ngày 10/12/2018, tại khu vực trước cửa hiệu thuốc số A, đường T, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, Lương Đình V đã có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy Heroine với khối lượng 0,111 gam để sử dụng. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn truy tố bị cáo Lương Đình V về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương, gây bất bình trong xã hội. Bị cáo nhận thức rõ ma túy là chất gây nghiện, có tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe con người, là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác nhưng bị cáo vân cố tình thực hiện.

[4] Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, chưa có tiền án, tiền sự.

[5] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[6] Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo còn có bố là ông Lương Đình Đ được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về hình phạt chính: Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, tình tiết giảm nhẹ và nhân thân người phạm tội. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp. Hội đồng xét xử xem xét, quyết định một mức án tương xứng với hành vi phạm tội đó là cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định, ấn định ở mức khởi điểm của khung hình phạt đủ để bị cáo có thời gian tập trung học tập, cải tạo và trở thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời cũng đảm bảo tính chất răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền do bị cáo không có việc làm và sống phụ thuộc vào gia đình theo biên bản xác minh ngày 05/01/2019 của Cơ quan điều tra công an thành phố Lạng Sơn.

[9] Đối với người đàn ông tên H, Cơ quan điều tra chưa xác minh làm rõ được nên không đề cập xử lý.

[10] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đối với 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật Heroine sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành và đối với 01 vỏ bao thuốc Thăng Long là vật không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy, đối với 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Lương Đình V là giấy tờ tùy thân của bị cáo không liên quan đến vụ án cần trả lại cho Lương Đình V.

[11] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[12] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hìnhsự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Lương Đình V phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lương Đình V 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 10/12/2018.

2. Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật (chất ma tuýHeroine) sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long

Trả lại bị cáo Lương Đình V 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Lương Đình V.

(Vật chứng trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thànhphố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/01/2019).

3. Án phí: Bị cáo Lương Đình V phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, sung ngân sách Nhà Nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HS-ST ngày 21/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về