Bản án 18/2019/HSST ngày 20/05/2019 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK GLONG, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 18/2019/HSST NGÀY 20/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 20 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 09/2019/HSST ngày 15 tháng 3 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Trần Như Q, sinh năm 1987 tại tỉnh Yên Bái; trú tại: Thôn 8, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Phật giáo; con ông Trần Tuấn P (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ; Bị cáo có vợ Phạm Thị Mỹ D và 02 con; tiền án; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 24-8-2006 bị Tòa án nhân dân huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 18 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; ngày 19-01-2007 bị Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 07 năm tù về tội Cướp tài sản, tổng hợp hình phạt chung của hai bản án là 08 năm 06 tháng; ngày 17-4-2018 bị Tòa án nhân dân huyện Đắk Glong tuyên phạt 01 năm 03 tháng tù; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 28-11-2018 - có mặt

2. Lương Vĩnh T (tên gọi khác: Lương Văn T), sinh năm 1997 tại tỉnh Đồng Nai; nơi ĐKHKTT: Ấp 4, xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai; chỗ ở hiện nay: Thôn 9, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: Hoa; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Lương Văn T và bà Đoàn Thị T; Bị cáo chưa có vợ và con; tiền án; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 19-9-2014 bị Tòa án nhân dân huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông xử phạt 06 tháng cải tạo không giam giữ về tội trộm cắp tài sản; ngày 27-09-2018 bị Tòa án nhân dân huyện Đắk Glong xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 28- 11-2018 - có mặt

3. Triệu Văn P, sinh năm 1998 tại tỉnh Cao Bằng; trú tại: Thôn 4, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Nùng; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Triệu Văn L và bà Lục Thị P; Bị cáo có vợ Lê Thị Mỹ C và 01 con; tiền án; tiền sự: Không; nhân thân: ngày 27-9-2018 bị Tòa án nhân dân huyện Đắk Glong xử phạt 06 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 28-11-2018 - có mặt

- Bị hại: Anh Dương Văn C và chị Bùi Thị X, cùng địa chỉ: Thôn7, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; anh Nguyễn Chí L, chị Dịp Bắc K, cùng địa chỉ: Bon B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; anh Bùi Duy H, chị Nguyễn Thị T, cùng địa chỉ: Thôn 7, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông (Tất cả Bị hại đều vắng mặt không lý do)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Xuân B, địa chỉ: Thôn 4, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; anh Đỗ Thành V, địa chỉ: Thôn 6, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; bà Nguyễn Thị Hồng S, địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; anh K’ B, ông K’B, cùng địa chỉ: Thôn 2, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông (Tất cả những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt không lý do)

- Người làm chứng: Anh Hoàng Hiệp S, địa chỉ: Thôn 2, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông (Vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ ngày 06-4-2018 đến ngày 17-5-2018 tại huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; Trần Như Q đã nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, trong đó có 01 lần thực hiện cùng Lương Vĩnh T; Triệu Văn P đã tiêu thụ tài sản do Q phạm tội mà có, cụ thể:

Lần thứ nhất:

Khong 08 giờ 30 phút ngày 06-4-2018, Trần Như Q đi bộ từ nhà vào rẫy của gia đình ở thôn 7, xã Q, huyện Đ. Khi đi ngang qua vườn rẫy của vợ chồng anh Dương Văn C (sinh năm 1980), chị Bùi Thị X (sinh năm 1991) ở thôn 7, xã Q, Trần Như Q nhìn thấy 01 xe mô tô nhãn hiệu WAVE RSX, màu đỏ đen xám, biển kiểm soát: 48B1-169.11 của vợ chồng anh C đang dựng, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa cốp dưới yên xe nên Q nảy sinh ý định trộm cắp. Quan sát thấy xung quanh không có ai nên Trần Như Q tiến lại vị trí xe, rút chìa khóa dưới yên xe, cắm vào ổ khóa xe rồi nổ máy, điều khiển xe đi sang tỉnh Lâm Đồng. Trên đường đi, Trần Như Q dừng lại đổ xăng thì phát hiện trong cốp xe có 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY J5 Prime, màu đen của anh Dương Văn C nên Q tắt nguồn chiếc điện thoại rồi tiếp tục điều khiển xe về xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng.

Tại đây, Trần Như Q bán chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 48B1-169.11 cho Triệu Văn P được số tiền 2.700.000 đồng. Trước khi bán, Trần Như Q nói cho Triệu Văn P biết chiếc xe này do Q trộm cắp mà có nhưng P vẫn đồng ý mua.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY J5 Prime, khi về lại xã Q, huyện Đ, Trần Như Q đã bán cho anh Nguyễn Xuân B (sinh năm 1988, trú tại: Thôn Đ, xã Q, huyện Đ) được số tiền 2.000.000 đồng. Khi mua, anh Nguyễn Xuân B không biết chiếc điện thoại này do Trần Như Q trộm cắp mà có.

Số tiền bán xe và điện thoại, Trần Như Q đã tiêu xài cá nhân hết.

Lần thứ 2:

Khong 13 giờ ngày 23-4-2018, Trần Như Q điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA ABLADE, biển kiểm soát: 48B1-269.46 (xe của ông K’B, sinh năm 1978, trú tại Thôn 2, xã Đ, huyện Đ) chở K’B (tên gọi khác là Út, sinh năm 1999, là con trai ông K’B) đi từ xã Đ đến quán nước mía ở thôn 7, xã Q, huyện Đ. Tới nơi, Trần Như Q dừng xe để K’ B vào quán uống nước mía còn Q tiếp tục điều khiển xe đi tìm tài sản để trộm cắp. Đi được một đoạn, Trần Như Q giấu xe mô tô biển kiểm soát: 48B1- 269.46 vào một vườn chanh dây rồi đi bộ đến nhà vợ chồng anh Bùi Duy H (sinh năm 1988), chị Nguyễn Thị T (sinh năm 1990) ở thôn 7, xã Q. Quan sát thấy không có ai ở nhà, cửa nhà mở nên Trần Như Q đi vào bên trong lục tìm tài sản thì lấy được 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F1S, màu vàng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu BLACKBERRY Q10 và số tiền 3.700.000 đồng của vợ chồng anh Bùi Duy H. Sau đó, Trần Như Q điều khiển xe quay lại quán nước mía chở K’B đến phòng trọ của Nguyễn Duy L (sinh năm 1988) ở thôn 6, xã Q để chơi (Trần Như Q không nói cho K’B biết việc trộm cắp tài sản). Tại đây, Trần Như Q lấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu BLACKBERRY Q10 ra thì thấy khó sử dụng nên Q đã vứt chiếc điện thoại sang rẫy cà phê ở bên cạnh phòng trọ; sau đó chị Đỗ Thị T (sinh năm 1991, trú tại Thôn 10, xã Q, huyện Đ) nhặt được chiếc điện thoại và trả lại cho anh Bùi Duy H. Còn chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F1S sau đó Trần Như Q đã bán cho một người đàn ông tên U (không rõ nhân thân, lai lịch) ở phường 1, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng được số tiền 2.000.000 đồng. Số tiền bán điện thoại và số tiền trộm cắp được, Trần Như Q đã tiêu xài cá nhân hết.

Lần thứ 3:

Khong 09 giờ ngày 07-5-2018, Trần Như Q điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu vàng đen, Biển kiểm soát: 48B1-466.04 của Q chở Lương Vĩnh T đi đến xã Đ, huyện Đ để lấy tiền nợ.

Khi đi qua nhà vợ chồng anh Nghiêm Chí L (sinh năm 1984), chị Dịp Bắc K (sinh năm 1989) ở bon B, xã Đ, huyện Đắk Glong, thấy không có ai ở nhà nên Lương Vĩnh T và Trần Như Q nảy sinh ý định trộm cắp. Do đó, Trần Như Q dừng xe cách nhà anh Nghiêm Chí L khoảng 20m và nói Lương Vĩnh T đứng cảnh giới để Q đi vào trong nhà anh L tìm kiếm tài sản để trộm cắp. Thấy cửa nhà anh Nghiêm Chí L đã khóa, Trần Như Q liền dùng 01 cái búa lấy trước sân nhà anh L cạy bung cửa rồi đi vào trong nhà lấy được 01 máy tính bảng nhãn hiệu LEVONO Tab 3 850M, 01 đôi bông tai vàng 18K, 01 dây chuyền vàng 18K có mặt hình tượng phật (có tổng trọng lượng 1,74 chỉ) và số tiền 3.000.000 đồng của vợ chồng anh L. Sau đó, Trần Như Q và Lương Vĩnh T không đi lấy tiền nợ nữa mà đi sang xã T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng bán số vàng trộm cắp được cho tiệm vàng Kim Giang do bà Nguyễn Thị Hồng S (sinh năm 1961) làm chủ được số tiền 3.400.000 đồng. Khi mua, bà Nguyễn Thị Hồng S không biết số vàng này do Trần Như Q và Lương Vĩnh T trộm cắp mà có. Số tiền bán vàng và số tiền trộm cắp được, Trần Như Q và Lương Vĩnh T đã tiêu xài cá nhân hết; còn chiếc máy tính bảng, Q giữ lại để sử dụng.

Sau đó hành vi phạm tội của Trần Như Q, Lương Vĩnh T và Triệu Văn P bị phát hiện. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Glong, Trần Như Q, Lương Vĩnh T và Triệu Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại các Kết luận định giá tài sản ngày 20-4-2018, ngày 16-7-2018 và ngày 06- 8-2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đắk Glong kết luận:

01 xe mô tô nhãn hiệu WAVE RSX, màu đỏ đen xám, biển kiểm soát: 48B1-169.11 có giá trị còn lại là 11.302.368 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY J5 Prime, màu đen, có giá trị còn lại là 3.793.198 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu BLACKBERRY Q10 có giá trị còn lại là 3.900.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F1S, màu vàng, có giá trị còn lại là 1.750.000 đồng; 01 máy tính bảng nhãn hiệu LEVONO Tab 3 850M có giá trị còn lại là 2.793.000 đồng; 01 đôi bông tai vàng 18K và 01 dây chuyền vàng 18K có mặt hình tượng phật có tổng trọng lượng 1,74 chỉ, trị giá 4.002.000 đồng. Tổng giá trị tài sản định giá là: 27.540.566 đồng.

* Về vật chứng của vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Glong đã thu giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu WAVE RSX, màu đỏ đen xám, biển kiểm soát: 48B1-169.11 do Triệu Văn P giao nộp; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, GALAXY J5 Prime, màu đen do anh Nguyễn Xuân B giao nộp; 01 điện thoại di động nhãn hiệu BLACKBERRY Q10 do anh Bùi Duy H giao nộp; 01 máy tính bảng nhãn hiệu LEVONO Tab 3 850M do Trần Như Q giao nộp; 01 đôi bông tai vàng 18K và 01 dây chuyền vàng 18K có mặt hình tượng phật do ông Nguyễn Xuân T (là chồng của bà Nguyễn Thị Hồng S) giao nộp; 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA ABLADE, biển kiểm soát: 48B1-269.46; 01 giấy đăng ký mô tô, biển kiểm soát: 48B1-269.46 mang tên Phùng Quang T thu giữ của ông K’B; 01 cái búa (dạng búa bổ củi; lưỡi bằng sắt dạng hình thang cân có kích thước (4,2 x 09 x 15)cm; cán bằng gỗ tròn, đường kính 2,5 cm, dài 40 cm) do anh Nghiêm Chí L giao nộp; 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu vàng đen, biển kiểm soát: 48B1-466.04 thu giữ của Trần Như Q.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F1S do không xác định được người mà Trần Như Q đã bán và tổng số tiền trộm cắp là 6.700.000 đồng do Q và Lương Vĩnh T đã tiêu xài hết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Glong không thu giữ được.

Thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giữ nên ngày 06-9-2018, ngày 20-12- 2018 và ngày 08-01-2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Glong đã ra các Quyết định xử lý vật chứng số 25, 02, 03 trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 48B1-169.11 và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, GALAXY J5 Prime cho chủ sở hữu là anh Dương Văn C và chị Bùi Thị X; trả lại chiếc điện thoại di động nhãn hiệu BLACKBERRY Q10 cho chủ sở hữu là anh Bùi Duy H; trả lại chiếc máy tính bảng nhãn hiệu LEVONO Tab 3 850M, 01 dây chuyền vàng 18K có mặt hình tượng phật; 01 đôi bông tai vàng 18K và 01 cái búa cho chủ sở hữu là anh Nghiêm Chí L và chị Dịp Bắc K; trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 48B1-269.46 và giấy đăng ký xe mô tô mang tên Phùng Quang T cho chủ sở hữu là ông K’B.

* Về trách nhiệm dân sự:

Anh Bùi Duy H, chị Nguyễn Thị T yêu cầu bị cáo Trần Như Q bồi thường số tiền 4.700.000đ; anh Nghiêm Chí L, chị Dịp Bắc K yêu cầu bị cáo Trần Như Q và Lương Vĩnh T bồi thường số tiền 3.000.000đ; bà Nguyễn Thị Hồng S yêu cầu bị cáo Lương Vĩnh T, Trần Như Q bồi thường số tiền 3.400.000đ.

Anh Nguyễn Xuân B không yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Bị cáo Trần Như Q đã tác động gia đình bồi thường số tiền 500.000 đồng cho anh Dương Văn C, chị Nguyễn Thị X nên anh C, chị X không yêu cầu bồi thường thêm.

Bản cáo trạng số 10/CTr-VKS ngày 31 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông truy tố bị cáo Trần Như Q, Lương Vĩnh T về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự; bị cáo Triệu Văn P về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Glong truy tố đối với các bị cáo là đúng, không oan.

Kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi phân tích nội dung vụ án đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g, khoản 1 điều 52 của bộ luật hình sự. Xử phạt Trần Như Q từ 1 năm 06 tháng đến 02 năm tù; Áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm s, khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lương Vĩnh T từ 09 đến 12 tháng tù; Áp dụng khoản 1 Điều 323, các điểm i, s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Triệu Văn P từ 06 đến 09 tháng tù.

Áp dụng điều 56 của Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt đối với bị cáo Quynh.

Về các biện pháp tư pháp:

Áp dụng khoản 1, Điều 47; điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 chiếc xe mô tô BKS 48 B1 466.04 do Trần Như Q sử dụng làm công cụ phạm tội.

Chấp nhận ngày 06-9-2018, ngày 20-12-2018 và ngày 08-01-2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Glong đã ra các Quyết định xử lý vật chứng số 25, 02, 03 trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 48B1-169.11 và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, GALAXY J5 Prime cho chủ sở hữu là anh Dương Văn C và chị Bùi Thị X; trả lại chiếc điện thoại di động nhãn hiệu BLACKBERRY Q10 cho chủ sở hữu là anh Bùi Duy H; trả lại chiếc máy tính bảng nhãn hiệu LEVONO Tab 3 850M, 01 dây chuyền vàng 18K có mặt hình tượng phật; 01 đôi bông tai vàng 18K và 01 cái búa cho chủ sở hữu là anh Nghiêm Chí L và chị Dịp Bắc K; trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 48B1-269.46 và giấy đăng ký xe mô tô mang tên Phùng Quang T cho chủ sở hữu là ông K’B.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584; 585; 586; 587 của Bộ luật dân sự năm 2015, buộc các bị cáo Trần Như Q, Lương Vĩnh T phải liên đới bồi thường cho anh Nghiêm Chí L, chị Dịp Bắc K số tiền 3.000.000đ, bồi thường cho bà Nguyễn Thị Hồng S số tiền 3.400.000đ. Bị cáo Q phải bồi thường cho Bùi Duy H, chị Nguyễn Thị T số tiền 4.700.000đ.

Đối với với anh Nguyễn Xuân B và bà Nguyễn Thị Hồng S khi mua chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAM SUNG GA LA XY J5 Prime; 01 đôi bông tai vàng 18K và 01 dây chuyền vàng 18K có mặt hình tượng phật không biết những tài sản này do phạm tội mà có nên không có căn cứ để xử lý. Đối với ông K’ B và K’ B không biết Trần Như Q sử dụng xe mô tô nhãn hiệu HON DA ABLADE, biển kiểm soát: 48B1-269.46 làm phương tiện trộm cắp tài sản nên không có căn cứ để xử lý. Đối với Đỗ Thành V biết xe do P mua là tài sản do trộm cắp mà có, nhưng vẫn cho P để xe ở nhà của mình, Tòa án nhân dân huyện Đăk Glong đã trả hồ sơ 02 lần để điều tra bổ sung làm rõ hành vi chứa chấp chiếc xe mô tô BKS 48B1-169.11 của Đỗ Thành V, tuy nhiên VKSND huyện Đăk Glong vẫn giữ nguyên quyết định truy tố.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Thừa nhận về hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu thu thập được có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đắk Glong, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk Glong, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập lưu trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa. Các chứng cứ buộc tội và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đối với việc giải quyết vụ án là có căn cứ pháp lý qua đó xác định: Từ ngày 06-4-2018 đến ngày 17-5-2018 tại huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; Trần Như Q đã nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, trong đó có 01 lần thực hiện cùng Lương Vĩnh T; Triệu Văn P đã tiêu thụ tài sản do Q phạm tội mà có, cụ thể:

Lần thứ nhất: Khoảng 09 giờ ngày 06-4-2018 tại: Thôn 7, xã Q, huyện Đ, Trần Như Q đã lén lút chiếm đoạt của vợ chồng anh Dương Văn C, chị Bùi Thị X 01 xe mô tô nhãn hiệu WAVE RSX, màu đỏ đen xám, biển kiểm soát: 48B1-169.11, có giá trị còn lại là 11.302.368 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY J5 Prime, màu đen, có giá trị còn lại là 3.793.198 đồng. Tổng giá trị tài sản là 15.095.566 đồng.

Mặc dù không hứa hẹn trước và biết chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 48B1- 169.11 do Trần Như Q trộm cắp mà có nhưng Triệu Văn P vẫn mua.

Lần thứ hai: Khoảng 14 giờ ngày 23-4-2018 tại: Thôn 7, xã Q, huyện Đ, Trần Như Q đã lén lút chiếm đoạt của vợ chồng anh Bùi Duy H, chị Nguyễn Thị T 01 điện thoại di động nhãn hiệu BLACKBERRY Q10, có giá trị còn lại là 3.900.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F1S, màu vàng, có giá trị còn lại là 1.750.000 đồng và số tiền 3.700.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 9.350.000 đồng.

Lần thứ ba: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 17-5-2018 tại: Bon B’N, xã Đ, huyện Đ, Trần Như Q và Lương Vĩnh T đã lén lút chiếm đoạt của vợ chồng anh Nghiêm Chí L, chị Dịp Bắc K 01 máy tính bảng nhãn hiệu LEVONO Tab 3 850M, có giá trị còn lại là 2.793.000 đồng; 01 đôi bông tai vàng 18K và 01 dây chuyền vàng 18K có mặt hình tượng phật (tổng trọng lượng 1,74 chỉ), trị giá 4.002.000 đồng cùng số tiền 3.000.000 đồng. giá trị tài sản là 9.795.000 đồng.

Tổng cộng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 34.240.566 đồng. Do vậy hành vi của các bị cáo Trần Như Q, Lương Vĩnh T đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự; hành vi của bị cáo Triệu Văn P đã phạm vào tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật hình sự.

Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

[3]. Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng các bị cáo vẫn cố tình thực hiện, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của gia đình anh Dương Văn C và chị Bùi Thị X, anh Nghiêm Chí L, chị Dịp Bắc K, anh Bùi Duy H, chị Nguyễn Thị T. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều có nhân thân xấu, các bị cáo Q, T đã bị kết án 02 lần về hành vi chiếm đoạt tài sản,tuy nhiên các bị cáo không lấy đó làm bài học mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội; bị cáo Q thực hiện hành vi trộm cắp nhiều lần và giữ vai trò chủ mưu, bị cáo T tham gia với vai trò giúp sức; bị cáo P biết việc mua xe mô tô do bị cáo Q trộm cắp nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của các bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, các hình phạt của các bản án trước đây chưa đủ cải tạo, giáo dục và răn đe đối với các bị cáo, nên cần cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo. Bị cáo Q thực hiện hành vi trộm cắp 03 lần nên bị cáo phải chịu tình tiết định khung tăng nặng là “phạm tội từ 02 lần trở lên” theo điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, nên xử phạt bị cáo mức hình phạt cao hơn, bị cáo T tham gia với vai trò giúp sức nên xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp hơn là phù hợp.

Xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện ăn năn hối cải,nên các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, bị cáo Q đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại cho người bị hại anh Dương Văn C, bị cáo Q hưởng thêm tình tiết quy định tại điểm b, bị cáo P được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quy định tại điểm i, khoản 1 Điều 51 bộ luật hình sự. HĐXX sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

Đối với bị cáo Q cần tổng hợp hình phạt tại bản án số: 42/2018/HSST ngày 27- 9-2018 của Tòa án nhân dân huyện Đăk Glong là có căn cứ pháp luật.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc truy tố các bị cáo và mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo là có cơ sở, HĐXX sẽ xem xét.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận việc bị cáo Q tác động gia đình tự nguyện bồi thường cho gia đình anh Dương Văn C số tiền 500.000đ, anh C không yêu cầu thêm nên không đề cập.

Buộc các bị cáo Trần Như Q, Lương Vĩnh T phải liên đới bồi thường cho anh Nghiêm Chí L, chị Dịp Bắc K số tiền 3.000.000đ, bồi thường cho bà Nguyễn Thị Hồng S số tiền 3.400.000đ nhưng chia theo phần là phù hợp. Bị cáo Q phải bồi thường cho anh Bùi Duy H, chị Nguyễn Thị T số tiền 4.700.000đ.

[6]. Về vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự; điểm b khoản 3, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 chiếc xe mô tô BKS 48 B1 466.04 do Trần Như Q sử dụng làm công cụ phạm tội. Chấp nhận ngày 06-9-2018, ngày 20-12-2018 và ngày 08-01-2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Glong đã ra các Quyết định xử lý vật chứng số 25, 02, 03 trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 48B1-169.11 và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, GALAXY J5 Prime cho chủ sở hữu là anh Dương Văn C và chị Bùi Thị X; trả lại chiếc điện thoại di động nhãn hiệu BLACKBERRY Q10 cho chủ sở hữu là anh Bùi Duy H; trả lại chiếc máy tính bảng nhãn hiệu LEVONO Tab 3 850M, 01 dây chuyền vàng 18K có mặt hình tượng phật; 01 đôi bông tai vàng 18K và 01 cái búa cho chủ sở hữu là anh Nghiêm Chí L và chị Dịp Bắc K; trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 48B1-269.46 và giấy đăng ký xe mô tô mang tên Phùng Quang T cho chủ sở hữu là ông K’B là phù hợp và có căn cứ pháp luật nên không đề cập xem xét.

Đối với anh Nguyễn Xuân B và bà Nguyễn Thị Hồng S khi mua chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAM SUNG GA LA XY J5 Prime; 01 đôi bông tai vàng 18K và 01 dây chuyền vàng 18K có mặt hình tượng phật không biết những tài sản này do phạm tội mà có nên không có căn cứ để xử lý. Đối với ông K’ B và K’ B không biết Trần Như Q sử dụng xe mô tô nhãn hiệu HON DA ABLADE, biển kiểm soát: 48B1- 269.46 làm phương tiện trộm cắp tài sản nên không đề cập là phù hợp. Đối với việc anh Đỗ Thành V biết xe do P mua là tài sản do trộm cắp mà có, nhưng vẫn cho P để xe ở nhà của mình, Tòa án nhân dân huyện Đăk Glong đã trả hồ sơ 02 lần để điều tra bổ sung làm rõ hành vi chứa chấp chiếc xe mô tô BKS 48B1-169.11 của Đỗ Thành V, tuy nhiên VKSND huyện Đăk Glong vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, do đó HĐXX tiếp tục xét xử vụ án theo tội danh Cáo trạng truy tố theo quy định tại Điều 298 của bộ luật hình sự là phù hợp.

[7]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự và án phí dân sợ sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Trần Như Q, Lương Vĩnh T phạm tội “ Trộm cắp tài sản”; bị cáo Triệu Văn Phong phạm tội “ Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 56 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Như Q 02 (hai) năm tù, Tổng hợp hình phạt 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù tại bản án số 42/2018/HSST ngày 27-9-2018 của Tòa án nhân dân huyện Đăk Glong. Tổng cộng bị cáo phải chấp hành hình phạt 03 (ba) năm 03(ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giam 28-11-2018 (được khấu trừ thời hạn bị cáo đã chấp hành hình phạt từ ngày 11-5-2018 đến ngày 27-11-2018).

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, Điều 51của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lương Vĩnh T (Tên gọi khác Lương Văn T) 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12-5-2019.

Áp dụng khoản 1 Điều 323, điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Triệu Văn P 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04-01-2019.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584; 585; 586; 587 của Bộ luật dân sự 2015. Buộc các bị cáo Trần Như Q, Lương Vĩnh T phải liên đới bồi thường cho anh Nghiêm Chí L, chị Dịp Bắc K số tiền 3.000.000đ. (Trong đó chia theo phần, mỗi cáo phải bồi thường: 1.500.000đ); bồi thường cho bà Nguyễn Thị Hồng S số tiền 3.400.000đ (Trong đó chia theo phần mỗi bị cáo phải bồi thường số tiền:1.700.000đ); bị cáo Q phải bồi thường cho Bùi Duy H, chị Nguyễn Thị T số tiền 4.700.000đ.

3. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng khoản 1, Điều 47; điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 chiếc xe mô tô BKS 48 B1 466.04 do Trần Như Q sử dụng làm công cụ phạm tội.

4. Về án phí: Căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án Tòa án buộc các bị cáo Trần Như Q, Lương Vĩnh T, Triệu Văn P, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Q phải nộp 340.000đ án phí dân sự sơ thẩm, bị cáo T phải nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn luật định là mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án đối với phần liên quan trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HSST ngày 20/05/2019 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:18/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Glong - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về