TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 18/2019/HSST NGÀY 17/04/2019 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN
Trong ngày 17/4/2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 15/2019/HSST ngày 14/3/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2019/QĐXXST-HS ngày 03/4/2019 đối với bị cáo:
Lê Huy T, sinh năm: 1988; giới tính: Nam; nơi sinh: Xã N, huyện B, tỉnh Hà Nam; nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Đội x, xã N, huyện B, tỉnh Hà Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 12/12; con ông Lê Huy G (đã chết) và bà Trần Thị Th; có vợ và 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2014. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ ngày 28/01/2019, đến ngày 03/02/2019 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam. (Có mặt).
* Bị hại: Bà Trần Thị Th, sinh năm 1961; địa chỉ: Đội x, xã N, huyện B, tỉnh Hà Nam. (Có mặt)
* Người làm chứng:
- Chị Nguyễn Thị Minh Th, sinh năm 1989; (Có mặt)
- Ông Trần Như V, sinh năm 1946; (Có mặt)
Đều có địa chỉ tại: Đội x, xã N, huyện B, tỉnh Hà Nam.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 04 giờ 30 phút ngày 28/01/2019, bị cáo Lê Huy T sau khi đi chơi về nhà, do bức xúc với gia đình và công việc của bản thân nên T đã lấy chìa khóa xe mô tô WAVE RSX biển kiểm soát 90B1 - xxx là tài sản hợp pháp của bà Trần Thị Th (mẹ đẻ của T) rồi dắt xe mô tô ra trước cửa gian buồng giáp bếp. T vào bếp lấy chiếc bật lửa ga bật lửa đốt ở miệng bình xăng xe mô tô của bà Th cho ngọn lửa bùng lên rồi tiếp tục bật lửa đốt ở miệng bình xăng xe mô tô NOUVO biển kiểm soát 90H8 - xxx (là tài sản của T) đang để ở sân. Bà Th và chị Nguyễn Thị Minh Th (là vợ của T) thấy hai xe mô tô bị cháy đã hô hoán gọi hàng xóm sang dùng nước dập tắt lửa. Khoảng 15 phút sau, T lại tiếp tục dắt xe NOUVO và xe WAVE ra ngõ trước cổng nhà, dựng cạnh nhau rồi lắc bình xăng xe NOUVO để xăng bắn ra ngoài miệng bình. T dùng bật lửa ga đốt làm ngọn lửa bùng lên bốc cháy cả hai xe. Lúc này có nhiều người hàng xóm ở đó nhưng T cầm 01 đoạn tuýp nước bằng kim loại và đe dọa không cho ai vào dập lửa nên cả 2 xe mô tô bị cháy hoàn toàn chỉ còn khung kim loại. Khoảng 8 giờ ngày 28/01/2019, T đến trụ sở UBND xã N đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi của bản thân như đã nêu trên.
Ngày 28/01/2019, cơ quan CSĐT Công an huyện B đã tổ chức khám nghiệm hiện trường và thu giữ 01 khung xe mô tô có số khung 9Y087761, số máy 5P11- 087771 và 01 khung xe mô tô có số khung 4329BY634024, số máy 6225207; 02 biển kiểm soát xe mô tô 90H8-xxx và 90B1-xxx. Bà Trần Thị Th tự nguyện giao nộp 01 đoạn tuýp nước bằng kim loại dài 140cm, màu xám, đường kính 2,7cm, một đầu cắt bằng, một đầu cắt vát và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 011435 của xe mô tô BKS 90B1 - xxx nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE RSX mang tên Hoàng Đức V, sinh năm 1974, trú tại thôn N, xã L, huyện Th, tỉnh Hà Nam.
Ngày 28/01/2019, cơ quan CSĐT Công an huyện B đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B định giá đối với xe mô tô biển kiểm soát 90B1 - xxx. Tại bản kết luận định giá tài sản số 03 ngày 30/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B kết luận: Trị giá thiệt hại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 90B1 - xxx, màu sơn đỏ - đen - bạc, nhãn hiệu HONDA; số máy 6225207; số khung 4329BY634024; năm sản xuất: 2011, nguồn gốc: sản xuất, lắp ráp tại Việt Nam là: 9.000.000 đồng.
Tại Cáo trạng số 18/CT - VKS ngày 11/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố bị can Lê Huy Tấn về tội “Hủy hoại tài sản”. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Hà Nam đã đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bị cáo Lê Huy T phạm tội “Hủy hoại tài sản”. Áp dụng: Khoản 1 Điều 178; các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm e khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự. Điểm c khoản 2 và các điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Xử phạt bị cáo T từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù. Trả lại bị cáo T một khung xe môtô có số khung 9Y087761, số máy 5P11 - 087771 và biển kiểm soát xe mô tô 90H8 – xxx; trả lại bà Th một khung xe có số máy 6225207; số khung 4329BY634024, biển kiểm soát xe mô tô 90B1 - xxx và giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 011435. Tịch thu tiêu huỷ một thanh tuýp sắt.
Tại phiên tòa, bị cáo T đã khai nhận hành vi đốt hai chiếc xe mô tô như nội dung vụ án đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa, bà Trần Thị Th trình bày: Bị cáo T là con trai bà trong lúc nóng giận đã không kiềm chế được bản thân nên đã có hành vi đốt chiếc xe mô tô WAVE RSX biển kiểm soát 90B1 - xxx của bà. Nay bà không đề nghị T phải bồi thường thiệt hại về tài sản. Bà đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T.
Tại phiên tòa, những người làm chứng là chị Th, ông V đều trình bày: Sáng ngày 28/01/2019, bị cáo T thực hiện hành vi hành vi đốt xe mô tô như nội dung vụ án đã nêu, lần đầu được mọi người giúp đỡ nên đã dập được lửa nhưng đến khi bị cáo đốt xe lần thứ hai thì không dập được.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên.
[2] - Về tội danh: Hành vi cố tình dùng bật lửa đốt chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 90B1 - xxx trị giá 9.000.000 đồng là tài sản hợp pháp của bà Trần Thị Th vào sáng ngày 28/01/2019 tại Đội x, xã N, huyện B, tỉnh Hà Nam làm chiếc xe mất hẳn giá trị sử dụng, không thể khôi phục lại được mặc dù đã được mọi người can ngăn của bị cáo Lê Huy T đã phạm tội “Hủy hoại tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo được hưởng tình tiết “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” và “Đầu thú, người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt” theo quy định tại các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo phải chịu tình tiết “Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng” theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
- Về hình phạt: Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; để thỏa mãn bức xúc cá nhân bị cáo cố tình đốt, gây hư hỏng hoàn toàn chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 90B1 - xxx là tài sản của chính mẹ đẻ mình và chiếc xe mô tô NOUVO biển kiểm soát 90H8 - xxx là tài sản của chính bị cáo. Hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, làm mất trật tự trị an, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Hội đồng xét xử thấy phải áp dụng mức hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo riêng và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên Hội đồng xét xử cũng xem xét đến hoàn cảnh gia đình, nhân thân của bị cáo và đề nghị giảm nhẹ hình phạt của người bị hại để quyết định mức hình phạt.
[3] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ biên bản xác minh tài sản xác định bị cáo không có tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Về vật chứng của vụ án: Xét khung xe có số khung 9Y087761, số máy 5P11-087771 và biển kiểm soát xe mô tô 90H8 – xxx là tài sản hợp pháp của bị cáo T nên trả lại cho bị cáo; khung xe có số máy 6225207, số khung 4329BY634024; biển kiểm soát xe mô tô 90B1 - xxx và giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 011435 là tài sản hợp pháp của bà Th nên trả lại cho bà Th. Thanh tuýp sắt là vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Do bà Th không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo T phải chịu 200.000 đồng.
[7] Về tình tiết khác của vụ án: Trong sáng ngày 28/01/2019 cùng với việc đốt chiếc xe của bà Th, bị cáo còn đốt chiếc xe mô tô NOUVO biển kiểm soát 90H8 – xxx nhưng do đây là tài sản hợp pháp của bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét đến hành vi này của bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 178; các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm e khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự.
Áp dụng điểm c khoản 2 và các điểm a, b khoản 3 Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.
Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14.
1. Tuyên bố bị cáo Lê Huy T phạm tội “Hủy hoại tài sản".
2. Xử phạt bị cáo Lê Huy T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ (28/01/2019).
3. Về vật chứng: Trả lại bị cáo Lê Huy T một khung xe có số khung 9Y087761, số máy 5P11-087771 và biển kiểm soát xe mô tô 90H8 - xxx; trả lại bà Trần Thị Th một khung xe có số máy 6225207, số khung 4329BY634024; biển kiểm soát xe mô tô 90B1 - xxx và giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 011435 của xe mô tô BKS 90B1 - xxx. Tịch thu tiêu huỷ một thanh tuýp sắt. Các vật chứng được xác định theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/3/2019 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện B và Chi cục Thi hành án dân sự huyện B.
4. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lê Huy T phải nộp 200.000 đồng.
Án xử công khai; báo cho bị cáo, bị hại biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 18/2019/HSST ngày 17/04/2019 về tội hủy hoại tài sản
Số hiệu: | 18/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Lục - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về