Bản án 18/2019/HS-ST ngày 17/01/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 18/2019/HS-ST NGÀY 17/01/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 394/2018/HSST ngày 12 tháng 12 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2019/HSST-QĐ ngày 04/01/2019 đối với bị cáo: Kim T, sinh năm 1996 tại tỉnh Sóc Trăng; thường trú: Ấp T xã H, huyện T, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Làm thuê (phụ hồ); trình độ học vấn: 1/12; dân tộc: Khơ Me; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Kim T1, sinh năm 1976 và con bà Kim Thị Bích L (đã chết); có vợ tên Kim Thanh T, sinh năm 2000; tiền sự, tiền án: Không có. Bị tạm giam ngày 10/7/2018, có mặt.

Bị hại: Chị Ngô Thị H, sinh năm 1997; tạm trú: 41 đường D4A, khu phố 3, phường T, Thành phố M, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Lê Văn P, sinh năm 1996; thường trú: Ấp T xã H, huyện T, tỉnh Sóc Trăng, vắng mặt.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1993; thường trú: 27/22 khu phố Đ, phường B, thị xã K, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 09/7/2018, tại phòng ở trọ của bị cáo Kim T, T được Trường, Bảo, Kiệt (không rõ nhân thân) rủ đi cướp giật tài sản, vào lúc 18 giờ 30 ngày 10/7/2018 bị cáo T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển số 83P3-564.87 chở Trường, Kiệt điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu xanh, trắng (không rõ biển số) chở Bảo cùng lưu thông từ địa bàn Quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đến địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Khi cả nhóm lưu thông đến đường Nguyễn Trãi thị xã Dĩ An g p chị Ngô Thị H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, biển số 38X1 – 275.54 trên tay cầm 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy j7 Plus lưu thông cùng chiều. T nói Trường “ mày giật đi”, Trường trả lời “chờ chút nữa vắng người thì giật”, khi cả nhóm lưu thông đến trước số nhà 02 đường Nguyễn Trãi, khu phố Đông Tân, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An T điều khiển xe mô tô áp sát chị H, Trường ngồi sau dùng tay phải giật điện thoại của chị H tẩu thoát, chị H truy hô “Cướp, cướp” và đuổi theo T, trên đường truy đuổi có anh Nguyễn Thanh T đang điều khiển xe mô tô trên đường cùng truy đuổi. Khi truy đuổi đến khu phố Thống Nhất 2, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xe của T và Trường tự ngã, T và Trường bỏ xe chạy bộ, T bị anh T và người đi đường bắt giữ, Trường cầm điện thoại cùng với Bảo và Kiệt tẩu thoát.

Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Siriu biển số 83P3-564.87 màu trắng đỏ.

Kết luận định giá tài sản số 389/BB.ĐG ngày 13/8/2018, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Dĩ An kết luận 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy j7 Plus trị giá 5.500.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Chị H yêu cầu bị cáo T bồi thường số tiền 5.500.000 đồng

Cáo trạng số 394/CT-VKS - DA ngày 11/12/2018, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Kim T về tội “Cướp giật tài sản”, theo quy định điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo T từ 3 năm đến 3 năm 6 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Kim T bồi thường cho bị hại H số tiền 5.500.000 đồng.

Về vật chứng: Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Siriu biển số 83P3-564.87 màu trắng đỏ thu giữ qua điều tra xác định xe trên của anh Lê Văn P cho T mượn và không biết T sử dụng vào việc phạm tội. Cơ quan điều tra đã trả lại anh P.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án bị cáo T nói lời sau cùng: Bị cáo rất hối hận việc mình đã làm, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức án cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa bị cáo Kim T khai nhận được Trường, Bảo, Kiệt (không rõ nhân thân) rủ đi cướp giật tài sản, vào lúc 18 giờ 30 ngày 10/7/2018 T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển số 83P3-564.87 chở Trường, Kiệt điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter chở Bảo. Cả nhóm lưu thông đến đường Nguyễn Trãi thị xã Dĩ An g p chị Ngô Thị H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, biển số 38X1 – 275.54 trên tay cầm 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy j7 Plus trị giá 5.500.000 đồng. T nói Trường “ mày giật đi”, sau đó T điều khiển xe mô tô áp sát chị H, Trường ngồi sau dùng tay phải giật điện thoại của chị H tẩu thoát thì bị bắt giữ.

Tại Điều 171. Tội cướp giật tài sản, Bộ luật hình sự quy định.

1.Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến

05 năm.

2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm;

a) Có tổ chức;

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

Như vậy, hành vi bị cáo T điều khiển xe mô tô là nguồn nguy hiểm cao độ, chở Trường giật tài sản của chị H đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” quy định điểm d, khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng số 394/CT – VKS – DA ngày 11/12/2018 của Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo T cũng như bản luận tội của Kiểm sát viên ngày hôm nay đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất mức độ tội phạm: Tội phạm do bị cáo T thực hiện là rất nghiêm trọng, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện phạm tội một cách cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo ngoài việc xâm phạm trực tiếp đến tài sản hợp pháp của chị Ngô Thị H được pháp luật bảo vệ, mà còn gây mất trật tự trị an và an toàn cho xã hội tại địa phương. Do vậy, hành vi trên của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh. Tuy nhiên Hội đồng xét xử cũng xét đến tình tiết tăng n ng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội cũng như có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng n ng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội gây thiệt hại tài sản không lớn, quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ học vấn 1/12 sự nhận thức về pháp luật còn hạn chế, bị cáo nhất thời phạm tội. Tình tiết trên được quy định tại điểm h, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo T có nhân thân tốt thể hiện việc bị cáo không có tiền án, tiền sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Ngô Thị H yêu cầu bị cáo T bồi thường trị giá điện thoại bị chiếm đoạt 5.500.000 đồng. Do vậy, buộc bị cáo T có trách nhiệm bồi thường.

[5] Đối với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Siriu biển số 83P3-564.87 màu trắng đỏ thu giữ, quá trình điều tra đã trả lại chủ sở hữu hợp pháp anh Lê Văn P là phù hợp.

[6] Trong vụ án còn có các đối tượng Trường, Bảo, Kiệt (không rõ nhân thân) cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội ngày 10/7/2018 cùng với bị cáo T. Quá trình điều tra Công an thị xã Dĩ An tách xác minh điều tra xử lý sau là phù hợp.

[7] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, mức hình phạt đối với bị cáo T và trách nhiệm dân sự. Xét quan điểm trên phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.

[8] Án phí sơ thẩm: Bị cáo T phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm, án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Kim T phạm tội Cướp giật tài sản Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171, điểm h, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự .

Xử phạt bị cáo Kim T 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/7/2018.

2. Các biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự. Điều 584, 585 và 589 Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo Kim T phải bồi thường cho bị hại Ngô Thị H số tiền 5.500.000 đồng (năm triệu năm trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự ; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14.

Bị cáo Kim T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Dân sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án ho c bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HS-ST ngày 17/01/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:18/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về